Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 374/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 249/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 249/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1996; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 7, xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Q, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14 tháng 9 năm 2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị T trình bày:

Chị kết hôn với anh Q trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng vào ngày 27 tháng 4 năm 2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 7, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác và không có trách nhiệm với gia đình, vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Q đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Chị T đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn K, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng sống từ năm 2019 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Q không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên V, sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 và H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020. Hiện nay chị T đang trực tiếp nuôi con chung tên H sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020, còn anh Q đang trực tiếp nuôi con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017. Khi ly hôn chị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên H sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, còn giao con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 04 tháng 11 năm 2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn là anh Q trình bày:

Anh kết hôn với anh T vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 7, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Chị T đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn K, xã P, huyện N, thành phố Hải Phòng sống từ năm 2019 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh, anh Q không đồng ý ly hôn mà mong muốn vợ chồng về đoàn tụ vì hai con còn nhỏ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên V, sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 và H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020. Hiện nay anh Q đang trực tiếp nuôi con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017, còn chị T đang trực tiếp nuôi con chung tên H ngày 03 tháng 3 năm 2020. Khi ly hôn anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết giao cả 02 con chung tên V, sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 và H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Q không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn là chị T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn là anh Q chưa tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T. Về hôn nhân: Cho chị T được ly hôn anh Q. Về con chung: Giao con chung tên H sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, giao con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật . Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung không xem xét giải quyết. Về tài sản chung không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Văn Văn Quân kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng vào ngày 27 tháng 4 năm 2017 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị T và anh Vũi Văn Quân chung sống hoà thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị T trình bày do anh Q có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác và không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Nay chị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Q không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q. Bị đơn là anh Q thừa nhận trong quá trình vợ chồng chung sống đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác nên vợ chồng xyar ra cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị T đã được gia đình hòa giải nhưng không thành, nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh Q, anh Q không đồng ý ly hôn mà mong muốn vợ chồng về đoàn tụ vì hai con còn nhỏ. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện chị T và anh Văn Văn Quân kết hôn với nhau vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chị T và anh Q chung sống hoà thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau về mặt tình cảm nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng chị T và anh Q đã sống ly thân nhau từ năm 2019 đến nay. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị T và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc anh Q không đồng ý ly hôn chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho chị T. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T về việc xin ly hôn anh Q, cho chị T được ly hôn anh Q.

[3] Về con chung: Chị T và anh Q có 02 con chung tên V, sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 và H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020. Khi ly hôn chị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, còn giao con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết giao cả 02 con chung tên V, sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 và H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện từ khi vợ chồng chị T và anh Q sống ly thân nhau từ năm 2019 đến nay chị T vẫn đang trực tiếp nuôi con chung tên H sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020, còn anh Q vẫn đang trực tiếp nuôi con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017. Xét việc nuôi con của chị T và anh Q đã ổn định, mặt khác con chung tên H dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao con chung tên H sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, giao con chung tên V sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

[4] Về tài sản chung: Chị T và anh Q thống nhất vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Cho chị T được ly hôn anh Q.

2. Về con chung: Giao con chung tên H, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao con chung tên V, sinh ngày 29 tháng 6 năm 2017 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007544 ngày 12 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;