Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 159/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về việc: “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 05/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N - sinh năm 1982;

ĐKHKTT: Khu phố T, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Địa chỉ nơi ở hiện nay: Khu phố T, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa;(có mặt)

Bị đơn: Anh Lê Doãn B - sinh năm 1980;

Địa chỉ: Khu phố T, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Vũ Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nvà anh B tự nguyện kết hôn với nhau, được hai bên gia đình đồng ý tổ chức cưới theo phong tục địa phương vào năm 2001 và đến năm 2004 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng sống vui vẻ hạnh phúc được thời gian đầu, sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vả. Vợ chồng đã sống ly thân nhau 01 năm nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng của chị N được giải quyết ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị N và anh B có 02 con chung, là cháu Lê Doãn H - sinh ngày 19/4/2002 và cháu Lê Thị Trà M – sinh ngày 07/4/2004. Nay chị N đề nghị giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trà M và không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Cháu H đã thành niên và phát triển bình thường nên chị Nkhông yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị N không yêu cầu xem xét, giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Doãn B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh B thống nhất với lời khai của chị N về thời gian, địa điểm và điều kiện kết hôn. Còn nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng theo anh B khai là do xuất phát từ kinh tế gia đình, làm ăn khó khăn khiến vợ chồng cãi vã. Nay chị Nyêu cầu giải quyết ly hôn thì anh B không đồng ý ly hôn. Nếu chị Nvẫn cương quyết ly hôn thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh B và chị Ncó 02 con chung, là cháu Lê Doãn H - sinh ngày 19/4/2002 và cháu Lê Thị Trà M – sinh ngày 07/4/2004. Nếu phải ly hôn thì anh B đồng ý giao cháu Trà M cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Cháu H đã thành niên và phát triển bình thường nên anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết, ở với ai là do cháu tự quyết định.

Về tài sản, công nợ chung: Anh B không yêu cầu xem xét, giải quyết. Nếu cần thiết sau này anh sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

Tại phiên tòa lần 02 có mặt chị Nguyệt, vắng mặt anh B, chị Nvẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Kết thúc tranh luận, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về hướng giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xử cho chị Nđược ly hôn với anh B.

Về yêu cầu nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào nguyện vọng của các đương sự và nguyện vọng của con để giao con theo quy định, cần giao cháu Lê Thị Trà M cho chị Ntrực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về tài sản, công nợ chung: Chị N và anh B không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

Về án phí: Buộc nguyên đơn chị Vũ Thị N phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa. Trên cơ sở quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp hành pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn có đủ cơ sở nhận định.

[1]. Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Sầm Sơn, nên vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn là đúng quy định tại các Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Doãn B đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh B vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng và trở ngại khách quan, căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh B.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh B đã thực hiện lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, việc kết hôn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Tại thời điểm đăng ký kết hôn, cả chị và anh không vi phạm các quy định về độ tuổi và các điều kiện cấm kết hôn theo luật hôn nhân và gia đình. Như vậy, hôn nhân của anh, chị được công nhận là hợp pháp.

[3]. Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn: Trong thời kỳ hôn nhân ban đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng về sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau về tính tình và quan điểm sống, mâu thuẫn từ kinh tế gia đình từ đó dẫn đến vợ chồng anh chị thường xuyên cải vả nhau, xung đột nhau.Vợ chồng sống ly thân hơn 01 năm nay, trong thời gian ly thân vợ chồng anh chị cũng không còn quan tâm đến nhau nữa. Như vậy, mâu thuẫn cuộc sống hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay nguyện vọng xin ly hôn của chị Nlà có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử chấp nhận với ý kiến của Kiểm sát viên, cho chị Vũ Thị Nđược ly hôn anh Lê Doãn B là phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Chị N và anh B có 02 con chung, là cháu Lê Doãn H - sinh ngày 19/4/2002 và cháu Lê Thị Trà M – sinh ngày 07/4/2004. Hiện tại cháu Trà M đang ở với chị Nguyệt. Nay chị N và anh B thống nhất giao cháu Trà M cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với cháu H đã thành niên và phát triển bình thường nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét sự thống nhất về việc nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với thực tế và quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N và anh B thống nhất anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét đây là ý chí tự nguyện của chị Nvà anh B, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5].Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Vũ Thị Nphải chịu, theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. (ban hành kèm theo danh mục án phí, lệ phí Tòa án).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Vũ Thị N về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Lê Doãn B.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Vũ Thị N được ly hôn với anh Lê Doãn B;

Về con chung: Giao cháu Lê Thị Trà M cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu thành niên. Anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh B có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Vũ Thị N phải chịu 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số: AA/2021/0013169 ngày 21/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chị N đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Chị Vũ Thị N được quyền kháng cáo bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Lê Doãn B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;