Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN NAM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 120/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2021, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2022/QĐST-DS ngày 23/3/2022 và Thông báo dời thời gian xét xử số: 55/TB-TA ngày 06/4/2022, giữa các đương sự:

1/Nguyên đơn: chị Mang Thị H - sinh năm 1992 (yêu cầu vắng mặt);

Địa chỉ: thôn L, xã N, huyện S, tỉnh Ninh Thuận.

2/ Bị đơn: anh Phú Văn D - sinh năm 1992 (vắng mặt);

Địa chỉ: thôn P, xã N, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 02/12/2021, lời khai trong hồ sơ, nguyên đơn chị Mang Thị H trình bày: chị và anh Phú Văn D tự nguyện tìm hiểu và tiến đến chung sống từ năm 2014 nhưng đến năm 2020 vợ chồng mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện S, tỉnh Ninh Thuận. Vợ chồng sống hạnh phúc đến khi chị mang thai thì anh D thay đổi tính tình, thường xuyên uống rượu về đánh chị và đập phá đồ đạc trong nhà, từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Mỗi lần vợ chồng cãi vã thì anh D về nhà cha mẹ ruột ở P sinh sống, không quan tâm gì đến vợ con; vì không muốn gia đình tan vỡ nên nhiều lần chị chủ động đến năn nỉ hàn gắn và thuyết phục anh D đi đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, sau khi vợ chồng đăng ký kết hôn thì anh D gây chuyện, đánh đập và phá đồ đạc trong nhà thường xuyên hơn, sau đó bỏ về nhà cha mẹ sống từ tháng 12/2021 đến nay và yêu cầu chị làm đơn ly hôn. Chị nhận thấy, vợ chồng không thể hàn gắn và chung sống hạnh phúc nên yêu cầu giải quyết ly hôn.

Về con chung: vợ chồng chung sống có 02 người con chung gồm: Mang Phú Thị Thùy T - sinh ngày 10/9/2015 và Mang Phú Quỳnh T - sinh ngày 26/8/2019; các con hiện do chị H nuôi dưỡng. Chị yêu cầu được nuôi các con và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về ý kiến bị đơn: Anh Phú Văn D không có văn bản nêu ý kiến, không đến Tòa án theo Giấy triệu tập nên Tòa án không thể thu thập lời khai của anh D.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H được ly hôn anh D. Chấp nhận yêu cầu của chị H, giao chị H được quyền nuôi 02 người con chung. Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện nên không xem xét. Về án phí, đề nghị miễn toàn bộ án phí cho chị H theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Thủ tục tố tụng:

- Sự vắng mặt của đương sự: căn cứ biên bản lấy lời khai ngày 25/02/2022, chị Mang Thị H yêu cầu xét xử vắng mặt; anh Phú Văn D đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 227, khoản 1 điều 228 BLTTDS Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện của chị Mang Thị H yêu cầu ly hôn anh Phú Văn D trú tại thôn P, xã N, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, giải quyết cho chị được quyền nuôi con. Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định yêu cầu khởi kiện của chị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam. Căn cứ điều 195 BLTTDS, Tòa án tiến hành thụ lý vụ án và xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2]. Nội dung vụ án:

Chị Mang Thị H khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn anh Phú Văn D và yêu cầu được nuôi con trên cơ sở các chứng cứ: Giấy chứng nhận kết hôn số: 114 do UBND xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn cấp ngày 09/11/2020, các Giấy khai sinh số: 62/2016 và số 427, sổ hộ khẩu gia đình và lời trình bày của chị H, thấy rằng: Tại biên bản xác minh ngày 10/01/2022, UBND xã N xác nhận anh Phú Văn D hiện đang trú tại thôn P, xã N nhưng Tòa án gửi các văn bản tố tụng anh D từ chối nhận và không đến Tòa. Việc anh D từ chối nhận văn bản tố tụng của Tòa án, không có văn bản nêu ý kiến và không đến Tòa án là tự tước bỏ quyền phản bác của mình được quy định tại khoản 3 điều 72 BLTTDS. Vì vậy, căn cứ khoản 2 điều 92 BLTTDS, khẳng định các chứng cứ chị H cung cấp là sự thật được chấp nhận. Qua phân tích, đánh giá chứng cứ trên, khẳng định:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số: 114 ngày 09/11/2020 của UBND xã N, huyện S, khẳng định hôn nhân giữa chị H và anh D là hôn nhân hợp pháp.

- Tình trạng hôn nhân: Trong quá trình chị H và anh D chung sống thường xảy ra mâu thuẫn; mặc dù chị H nhiều lần níu kéo, tìm mọi cách hàn gắn nhưng vợ chồng không thể chung sống hạnh phúc. Từ sau khi đăng ký kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng càng gay gắt hơn nên tự sống ly thân, bỏ mặc nhau; điều đó cho thấy cuộc sống hôn nhân giữa chị H và anh D đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; chị H yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận.

- Về con chung: Căn cứ các Giấy khai sinh số: 62/2016 và số 427 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện S, khẳng định: Vợ chồng chị H, anh D có 02 người con chung tên Mang Phú Thị Thùy T - sinh ngày 10/9/2015 và Mang Phú Quỳnh T- sinh ngày 26/8/2019. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, các con do chị H nuôi dưỡng, anh D không có ý kiến gì về việc nuôi con nên chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi các con là phù hợp pháp luật nên chấp nhận. Anh D không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, không ai có quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[3]. Án phí: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14: Chị H thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Anh D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[4]. Tại phiên tòa, kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn anh D; được quyền nuôi 02 con chung. Về án phí, do chị H thuộc hộ nghèo nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 1, miễn toàn bộ án phí cho chị H. Xét đề nghị của kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 điều 28, điểm b khoản 2 điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Mang Thị H và anh Phú Văn D.

2. Về trách nhiệm nuôi con: Chấp nhận yêu cầu của chị Mang Thị H, giao chị H được quyền nuôi dưỡng 02 con chung tên Mang Phú Thị Thùy T - sinh ngày 10/9/2015 và Mang Phú Quỳnh T - sinh ngày 26/8/2019.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Mang Thị H.

Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Nam - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;