Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số 354/2021/TLST-HNGĐ ngày 29/10/2021, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/01/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị N, sinh năm 1994. Có mặt.

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Số 14 N, tổ 4, phường Th, thành phố K, tỉnh Kon Tum.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 28 tháng 10 năm 2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đặng Thị N trình bày:

*Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị N và anh Nguyễn Văn C trước khi kết hôn đã có thời gian tìm hiểu được 01 năm. Được sự đồng ý của hai bên gia đình, chị N và anh C tổ chức lễ hỏi cưới và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Th, thành phố K, tỉnh Kon Tum vào ngày 20 tháng 3 năm 2017.

Sau khi cưới, vợ chồng chị về chung sống với bố mẹ chị N. Thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường cho đến khi chị N sinh con vào tháng 10/2017 thì anh C đã có biểu hiện ngoại tình với người phụ N khác. Chị Đặng Thị N có khuyên và tha thứ cho anh C, vợ chồng chung sống đến tháng 8/2018 thì anh C lại tiếp tục ngoại tình, nên vợ chồng đã xảy ra cãi vã, anh C đã đánh chị N và ra ở riêng, vợ chồng đã sống ly thân 03 năm nay. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị Đặng Thị N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn C.

*Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 07/10/2017. Khi ly hôn chị Đặng Thị N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con.

*Về tài sản chung: Vợ chồng chị N không có tài sản chung.

Bị đơn anh Nguyễn Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận C khai chứng cứ và hòa giải và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng không có ý kiến trả lời cho Tòa án biết đối với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Đặng Thị N và cũng như vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận C khai chứng cứ, hòa giải và phiên tòa xét xử sơ thẩm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Kon Tum phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chị Đặng Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn C. Về con chung: Giao cháu cháu Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 07/10/2017 cho chị Đặng Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chị Đặng Thị N không yêu cầu cấp dưỡng, nên không đề cập. Về tài sản chung, vợ chồng chị N không có tài sản chung, nên không đề cập. Chị Đặng Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng: Chị Đặng Thị N có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum giải quyết ly hôn giữa chị với anh Nguyễn Văn C có nơi cư trú tại số nhà 14 N, tổ 4, phường Th, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum.

Anh Nguyễn Văn C đã được Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, C khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập nhưng anh C vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn C.

[2]. Nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị N và anh Nguyễn Văn C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Th, thành phố K, tỉnh Kon Tum vào ngày 20 tháng 3 năm 2017.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường cho đến khi chị N sinh con vào tháng 10/2017 thì anh C đã có biểu hiện ngoại tình với người phụ N khác. Theo chị N trình bày khi anh C có biểu hiện ngoại tình chị N đã khuyên và tha thứ cho anh C, nhưng anh C không thay đổi dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi vã, anh C đã đánh chị N rồi ra ở riêng. Vợ chồng chị Đặng Thị N và anh Nguyễn Văn C đã sống ly thân 03 năm nay.

Tòa án đã tiến hành xác minh gia đình chị Đặng Thị N và chính quyền địa phương. Đại diện gia đình chị N và chính quyền địa phương xác nhận vợ chồng chị N và anh C đã xảy ra mâu thuẫn vào năm 2017 do anh C có biểu hiện ngoại tình, vợ chồng đã xảy ra cãi vã và đã đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa vợ chồng chị N và anh C đã quá trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị N.

- Về con chung: Vợ chồng chị Đặng Thị N và anh Nguyễn Văn C có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 07/10/2017. Khi ly hôn chị Đặng Thị N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy hiện tại cháu Nguyễn Gia Kh đang do chị N nuôi dưỡng, nên cần giao cháu Nguyễn Gia Kh cho chị Đặng Thị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị Đặng Thị N không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con, nên không đề cập.

- Về tài sản chung: Vợ chồng chị Đặng Thị N và anh Nguyễn Văn C không có tài sản chung, nên không đề cập đến.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đặng Thị N.

1.Về hôn nhân: Chị Đặng Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 07/10/2017 cho chị Đặng Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Gia Kh đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Văn C chưa phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định. Anh Nguyễn Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị Đặng Thị N đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000423 ngày 28/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon Tum. Chị Đặng Thị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 04 tháng 3 năm 2022) chị Đặng Thị N có quyền làm đơn kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt, thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;