Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 186/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số: 02B/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị L.T.Đ.R, sinh năm 1989;

Địa chỉ: Ấp A, xã LH, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Tam trú: Ấp V, xã TVH, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Bị đơn: Anh D.H, sinh năm 1996;

Địa chỉ: Ấp TĐ, thị trấn O, huyện TS, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị L.T.Đ.R trình bày như sau:

Chị và anh D.H tự tìm hiểu được 2 tháng thì tự nguyện tiến tới kết hôn với nhau vào năm 2011, có tổ chức đám cưới, lần thứ nhất, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lạc Hòa, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 28/4/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến giữa 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ly thân tới nay. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Thời gian ly thân đã lâu, nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H; Về con chung: vợ chồng chị có 01 con chung tên D.A.H.Q, sinh ngày 29/12/2011, hiện nay đang sống với anh H. Sau khi ly hôn, chị đồng ý giao cho anh H được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Q và chị không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do hiện nay chị đang sinh sống và làm việc tại tỉnh Bình Dương, việc xin nghỉ và đi lại khó khăn nên chị có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa khi vụ án được đưa ra xét xử.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh H đến để tiến hành hòa giải nhưng anh H vắng mặt không có lý do và không có lời khai hay ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh đối với yêu cầu khởi kiện của chị R.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị R được ly hôn anh H. Về con chung: giao cháu D.A.H.Q, sinh ngày 29/12/2011 cho anh H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị R không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Chị R yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Chị L.T.Đ.R (là nguyên đơn trong vụ án) có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị R theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Anh D.H (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên Toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị R và anh H chung sống với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lạc Hòa, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 28/4/2011 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng chị R và anh H phát sinh mâu thuẫn, chị R xin ly hôn nên Toà án thụ lý, giải quyết là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Trong quá trình hôn nhân, chị R cho rằng do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Tòa án đã triệu tập anh H để tham gia phiên hòa giải nhưng anh H vắng mặt và không trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị R thể hiện anh H không muốn hàn gắn. Xét thấy, hôn nhân giữa chị R và anh H thực tế đã không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị R được ly hôn với anh H.

[2.2] Về con chung: Chị R xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng anh chị có 01 con chung tên D.A.H.Q, sinh ngày 29/12/2011, hiện nay đang sống với anh H. Xét thấy, chị R đồng ý giao cháu Q cho anh H được chăm sóc, nuôi dưỡng và cháu Q cũng có nguyện vọng được sống với anh H. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Q, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu Q cho anh H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, tuy nhiên anh H không yêu cầu chị R phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Anh H phải tạo điều kiện cho chị R được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị R không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa chị R và anh H có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Chị R phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị R đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L.T.Đ.R.

* Về hôn nhân: Chị L.T.Đ.R được ly hôn với anh D.H.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 95, quyển số I do Ủy ban nhân dân xã Lạc Hòa, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 28/4/2011 cho chị L.T.Đ.R và anh D.H không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

* Về con chung: Giao cháu D.A.H.Q, sinh ngày 29/12/2011 cho anh D.H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị R không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị R có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

* Về tài sản chung và nợ chung: Chị R không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này giữa chị R và anh H có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

* Về án phí sơ thẩm: Chị L.T.Đ.R phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008382 ngày 07 tháng 05 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Anh D.H không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị R và anh H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;