Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXX-ST ngày 07 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn Tế Cát, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam.

- Bị đơn: Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam.

Phiên toà: Có mặt chị H, anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04/5/2021, bản khai và lời trình bày của chị Nguyễn Thị H với nội dung như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Ngọc T lấy nhau H toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam ngày 12/9/2007. Sau ngày cưới, vợ chồng về làm ăn sinh sống cùng gia đình chồng tại xã Đ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 năm thì bắt đầu mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T thường xuyên uống rượu say rồi đánh đuổi chị H. Nhiều lần chị H cùng gia đình bố mẹ hai bên khuyên anh T thay đổi cách sống, tu chí làm ăn nhưng anh T không nghe mà ngày càng đối xử tệ bạc với chị H. Trong thời gian chung sống, đã năm lần chị H phải bỏ về nhà bố mẹ đẻ nhưng sau đó do anh T đến xin lỗi, hứa thay đổi nên vợ chồng tiếp tục đoàn tụ. Anh T không thay đổi mà vẫn thường xuyên mắng chửi chị thậm tệ vì vậy từ tháng 01/2021 đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H cho rằng vợ chồng không thể tiếp tục chung sống cùng nhau vì tình cảm không còn, đề nghị được ly hôn với anh T.

Ý kiến của anh T: Anh T và chị H kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ và được gia đình bố mẹ hai bên tổ chức đám cưới cho theo phong tục địa phương. Vợ chồng mâu thuẫn do thỉnh thoảng có cãi nhau vì anh T đi làm về nhiều khi đêm khuya vẫn dùng điện thoại, chị H càu nhàu nên anh T có chửi chị H nhưng chỉ là câu cửa miệng. Trước khi vợ chồng sống ly thân chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ 1 lần, anh T và bố mẹ đẻ anh T sang xin lỗi nên vợ chồng quay về đoàn tụ. Tháng 01/2021 vợ chồng cãi nhau anh T có mắng chửi, chị H tự dẫn hai con bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2021 đến nay. Anh T cho rằng, vợ chồng còn tình cảm với nhau, anh T không đồng ý ly hôn mà xin đoàn tụ.

Về con chung: Chị H và anh T đều xác nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu Phạm Ngọc T1, sinh ngày 15/3/2008 và cháu Phạm Châm A, sinh ngày 18/9/2016. Hiện nay cả hai cháu đang ở với chị H. Nay chị H và anh T đều đề nghị xin được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau Về tài sản chung và các vấn đề khác: Chị H và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên toà:

- Chị Nguyễn Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Phạm Ngọc T.

- Anh Phạm Ngọc T giữ nguyên quan điểm xin được đoàn tụ.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân có quan điểm như sau: Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và việc chấp hành pháp luật của các đương sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Ngọc T là hợp pháp, vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng và sống ly thân từ tháng 01 năm 2021 đến nay không ai quan tâm đến ai. Vì vậy, đề nghị Toà án giải quyết ly hôn giữa chị H và anh T.

Về con chung: Đề nghị giao cháu Phạm Ngọc T1, sinh ngày 15/3/2008 cho anh Phạm Ngọc T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Phạm Châm A, sinh ngày 18/9/2016 cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Các vấn đề khác chị H và anh T không yêu cầu nên không phải giải quyết. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Nguyên đơn - chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Xét yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Ngọc T là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 năm thì mâu thuẫn căng thẳng do anh T thường uống rượu say rồi chửi, đuổi chị H. Nhiều lần chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh T cùng gia đình hai bên hòa giải, anh T hứa sửa chữa, vợ chồng tiếp tục đoàn tụ nhưng anh T không thay đổi. Từ tháng 01 năm 2021 đến nay, chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh T cùng gia đình chồng nhiều lần đến tìm nhưng chị H kiên quyết không về đoàn tụ cùng anh T. Vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên giải quyết ly hôn giữa chị H và anh T là phù hợp với thực tế và pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phạm Ngọc T1, sinh ngày 15/3/2008 và cháu Phạm Châm A, sinh ngày 18/9/2016. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu T và cháu Châm A ở với chị H. Chị H và anh T đều có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị H cho rằng, anh T lười lao động và thường xuyên say rượu nên không thể chăm sóc các con tốt được, tiền thu nhập hàng tháng của chị bình quân từ 8.000.000đồng đến 11.000.000đồng nên chị đủ điều kiện nuôi con. Anh T cho rằng, anh có quyền nuôi con tiền thu nhập bình quân mỗi tháng là 6.000.000đồng.

Xét nguyện vọng của chị H và anh T về việc nuôi con chung là chính đáng nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Hội đồng xét xử thấy cần giao cháu T1 cho anh T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi; cháu A còn nhỏ, cần sự chăm sóc của người mẹ nên giao cháu A cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu A đủ 18 tuổi là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[4] Về tài sản chung và các vấn đề khác: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Các Điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Ngọc T.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Ngọc T1, sinh ngày 15/3/2008 cho anh Phạm Ngọc T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi; Giao cháu Phạm Châm A, sinh ngày 18/9/2016 cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu A đủ 18 tuổi. Đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con 3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được đối trừ số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số AA/2021/0000983 ngày 16/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;