Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 04/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 8 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2021giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị X, sinh năm 1995; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu.

(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do).

2. Bị đơn: Anh Hà Văn X, sinh năm 1985; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu.

(Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” cùng các lời khai tại Tòa án nguyên đơn chị Hoàng Thị X trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hà Văn X về chung sống với nhau từ năm 2012 nhưng đến ngày 03/9/2015 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Thời gian đầu về chung sống với nhau giữa chị và anh X rất hạnh phúc, việc kết hôn giữa chị và anh X hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2018 thì chị phát hiện anh X nghiện ma túy, không quan tâm đến gia đình, vợ con, nhiều lần chị khuyên bảo và cho anh X cơ hội nhưng anh X không những không thay đổi mà còn lún sâu vào nghiện ma túy, đồ đạc trong gia đình và đất đai nhà cửa anh X đã bán hết. Đến cuối năm 2018 chị nhận thấy chị và anh X không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị đã cùng con trai về nhà mẹ đẻ tại xã Nậm Xe, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu sinh sống. Trong suốt thời gian chị và con về nhà mẹ đẻ sinh sống anh X cũng không quan tâm, không mong muốn chị về chung sống cùng nên chị xét thấy tình cảm của chị không còn yêu thương anh X nữa, đời sống chung của chị và anh X không thể kéo dài. Vì vậy, chị X đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hà Văn X 2. Về con chung: Chị và anh Hà Văn X có 01 con chung là Hà Đình P, sinh ngày 15/12/2013, hiện nay con chung đang ở với chị và bố mẹ chị. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con trưởng thành, đủ 18 tuổi. Chị hiện đi bán nước thuê thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 6.000.000đồng. Chị không yêu cầu anh X phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh X nghiện ma túy, không có công việc và thu nhập, sống lang thang không có nhà ở ổn định.

3. Về chia tài sản: Tài sản chung, nợ chung, cho vay chung chị X không yêu cầu Toà án giải quyết.

* Sau khi thụ lý vụ án, anh Hà Văn X mặc dù biết chị X có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn và được chị X giao các tài liệu chứng cứ đã giao nộp cho Tòa theo hướng dẫn của Tòa án nhưng anh X không nhận. Anh X đã được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ đến Tòa để làm việc nhưng cố tình vắng mặt mà không có lý do.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền thụ lý vụ án; thụ lý đơn yêu cầu ly hôn; việc xác định quan hệ tranh chấp và tư cách của đương sự trong vụ án; việc ra và gửi thông báo thụ lý cũng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đúng thời hạn quy định. Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và Thư ký: Tại phiên tòa xét xử vụ án ngày hôm nay, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ ba nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do là vi phạm về nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 147, 177, 179 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị X và xem xét quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị X được ly hôn với anh X; Về con chung: Giao con chung là Hà Đình P, sinh ngày 15/12/2013 cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi; Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X không yêu cầu anh X phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét; Về chia tài sản chung: Tài sản chung, nợ chung, cho vay chung chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí: Nguyên đơn chị X được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Hà Văn X có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản Chạm Cả, thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Anh X đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng cố tình vắng mặt không có lý do. Chị X có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên căn cứ khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Ngày 07/7/2021, Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên đã tiến hành mở phiên tòa lần thứ nhất, mặc dù được triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Ngày 26/7/2021 Tòa án mở phiên tòa lần thứ 2 nhưng do nguyên đơn có đơn xin hoãn phiên tòa nên Tòa án đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh X tiếp tục vắng mặt không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Hà Văn X là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị X có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị X và anh Hà Văn X đăng ký kết hôn ngày 03/9/2015 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc theo giấy đăng ký kết hôn số 100/2015 quyển số 01/2015. Do vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh X là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị X và anh X hạnh phúc được khoảng 6 năm (kể từ khi về chung sống là năm 2012 đến năm 2018), sau đó thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, do anh X nghiện ma túy, không chịu làm ăn phát triển kinh tế gia đình và không còn yêu thương, quan tâm đến chị X. Chị X và anh X đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Hiện chị X không còn tình cảm với anh X nên xin được ly hôn với anh X. Anh X biết việc chị X xin ly hôn và suốt thời gian vợ chồng sống ly thân anh X không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, anh cố tình không đến Tòa án để làm các thủ tục ly hôn với chị X. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy: Khoảng thời gian mâu thuẫn giữa chị X và anh X kéo dài và đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, giữa chị X và anh X không còn dành sự quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau nữa. Đặc biệt chị X không còn tình cảm yêu thương đối với anh X, không còn hạnh phúc khi chung sống với anh X, chị đã nhiều lần muốn ly hôn nhưng vì con của chị còn quá nhỏ. Nhưng đến nay, chị thấy anh X không hề thay đổi, không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, anh còn bán hết tài sản, nhà đất, phá tán tài sản, sống lang thang, anh cố tình trốn tránh việc đến Tòa để làm các thủ tục ly hôn.

Hội đồng xét xử nhận thấy hôn nhân giữa chị X và anh X đã thực sự lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Ủy ban nhân thị trấn Tân Uyên cũng đã xác định giữa chị X và anh X thường xuyên mâu thuẫn, anh X nghiện ma túy nên yêu cầu khởi kiện của chị X đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh X là hoàn toàn có căn cứ theo theo quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Con chung Hà Đình P, sinh ngày 15/12/2013. Hiện con chung đang sinh sống cùng với chị X và bố mẹ chị X tại xã Nậm Xe, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Hiện chị đi bán nước thuê, thu nhập bình quân khoảng 6.000.000đồng/01 tháng. Trong quá trình giải quyết vụ án anh X mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình không đến Tòa án và anh X không có việc làm, không có thu nhập, không có nơi ở ổn định và là đối tượng theo dõi nghiện chất ma túy. Vì vậy, để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của con chung Hà Đình Phong, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giao con chung cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X không yêu cầu anh X phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về chia tài sản chung: Chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị X cư trú tại bản Chạm Cả, thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên là địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí dân sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Quan điểm giải quyết vụ án của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị X được ly hôn với anh Hà Văn X

2. Về con chung: Giao con chung là Hà Đình P, sinh ngày 15/12/2013 cho chị Hoàng Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Anh Hà Văn X có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thị X không yêu cầu anh Hà Văn X phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về chia tài sản chung: Chị Hoàng Thị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Hoàng Thị X.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 04/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;