Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 88/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 88/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2022/TLST-HNGĐ ngày 21/3/2022 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1985.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn:

Chị Vũ Thị C, sinh năm 1990. Địa chỉ: Khu dân cư T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1980.

Địa chỉ: KDC Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Vũ Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Đ tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn. Ngày 04/3/2013 đăng ký kết hôn tại UBND phường C, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh Hải Dương. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không có hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tìm được sự đồng cảm, chia sẻ nên năm 2017 chị H đã đi lao động tại Đài Loan. Thời gian xa nhau mâu thuẫn vợ chồng càng gay gắt. Vợ chồng ly thân từ năm 2017 đến nay đã hơn 04 năm. Chị H xác định đời sống chung không hòa hợp nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

- Về quan hệ con chung: Chị H và anh Đ có 01 con chung là Dương Thị Bảo Đ, sinh ngày 07/11/2013, hiện đang ở với anh Đ. Khi ly hôn chị H đề nghị Tòa án giao con chung cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng đến khi trưởng thành để không xáo trộn cuộc sống của cháu và chị H sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Hiện chị đang ở Đài Loan nếu anh Đ không có nguyện vọng nuôi con thì chị cũng xin nuôi con và sẽ ủy quyền cho bố mẹ đẻ nuôi dưỡng cháu trong thời gian chị không ở Việt Nam, chị H tự nguyện không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung: Chị H và anh Đ không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Dương Văn Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H kết hôn như chị H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian thì chị H đi lao động tại Đài Loan. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách trái ngược, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Chị H đi lao động tại Đài Loan từ năm 2017 và từ đó đến nay chị H chưa về thăm nhà lần nào, vợ chồng anh chị ly thân từ đó đến nay. Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, nay chị H yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý.

- Về quan hệ con chung: Anh chị có 01 con chung như chị H trình bày là đúng. Anh là người trực tiếp chăm sóc con chung nên khi vợ chồng ly hôn anh có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con chung đến khi trưởng thành, bản thân con chung cũng có nguyện vọng được ở với bố, anh Đ tự nguyện không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay:

Các đương sự đều vắng mặt và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn là chị Vũ Thị C trình bày: Đề nghị HĐXX giải quyết cho chị Vũ Thị H và anh Dương Văn Đ được ly hôn, đề nghị HĐXX chấp nhận nguyện vọng của anh Đ xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Dương Thị Bảo Đ và tự nguyện không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Chị H tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đến nay tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận cho chị H được ly hôn anh Đ. Về con chung, giao con chung cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Chấp nhận sư tự nguyện của anh Đ không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Chị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Chị Vũ Thị H là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Đài Loan, có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Dương Văn Đ có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

- Theo Công văn của Cục quản lý xuất nhập cảnh, lần gần nhất chị H xuất cảnh là vào ngày 05/4/2017. Từ đó đến nay chị H chưa nhập cảnh lần nào. Các văn bản chị Vũ Thị H gửi về gồm Đơn xin ly hôn; Đơn xin xét xử vắng mặt; Giấy ủy quyền; Bản tự khai; Đơn đề nghị mời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp toàn bộ giấy tờ này không có chứng thực nhưng đã được tiến hành trưng cầu giám định vân tay của chị H so với vân tay của chị H trong Căn cước công dân, được kết luận là dấu vân tay của cùng một người theo Kết luận giám định số 02/KLGĐ-PC09 ngày 04/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương nên công nhận các văn bản trên là hợp pháp.

- Chị H hiện nay sinh sống ở Đài Loan không có điều kiện về Việt Nam nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt và ủy quyền cho chị Vũ Thị C giao nhận các văn bản tố tụng với Tòa án.

- Chị C đồng ý nhận ủy quyền của chị H để giao nộp và nhận các tài liệu, giấy tờ, quyết định của tòa án, chị C cam đoan do chị H đang ở Đài Loan nên có nguyện vọng xin được giải quyết vắng mặt và chị C sẽ có trách nhiệm thông báo và giao lại cho chị H các giấy tờ, tài liệu, quyết định của tòa án.

- Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa các đương sự vắng mặt nhưng đều đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 228 BLTTDS năm 2015, xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Đ tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống chung vợ chồng không có hạnh phúc do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tìm được sự đồng cảm, chia sẻ nên năm 2017 chị H đã đi lao động tại Đài Loan. Vợ chồng ly thân từ năm 2017 đến nay đã hơn 04 năm. Bản thân anh Đ cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy tình trạng vợ chồng giữa chị H và anh Đ đã trầm trọng, vợ chồng ly thân đã lâu, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị H ly hôn với anh Đ là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị H và anh Đ cùng xác định có 01 con chung là Dương Thị Bảo Đ, sinh ngày 07/11/2013, hiện đang ở với anh Đ. Khi ly hôn chị H và anh Đ cùng đề nghị giao con chung cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Chị H sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Anh Đ tự nguyện không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con. Cháu Đ có nguyện vọng xin được ở với bố. Xét thấy quan điểm của anh chị có sự thống nhất và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên cần chấp nhận. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đ về việc tự nguyện không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị H và anh Đ cùng xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Chị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 BLTTDS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Dương Văn Đ.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho anh Dương Văn Đ được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Dương Thị Bảo Đ, sinh ngày 07/11/2013 đến khi trưởng thành. Chị Vũ Thị H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Chị Vũ Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí do chị Vũ Thị C đã nộp thay chị H tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2020/0004984 ngày 18/3/2022. Chị Vũ Thị H đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 88/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:88/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;