Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 70/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 46/2022/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Trần Minh T, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn K, xã Đ, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2/ Bị đơn: Anh Hồ Văn T, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn K, xã Đ, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Trần Minh T trình bày: Chị víi anh Hồ Văn T tự nguyện tìm hiểu và xây dựng gia đình, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Đại, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam vào năm 2021. Vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T hay đi chơi khuya, uống rượu, ít quan tâm đến vợ con. Khi chị góp ý thì anh T không nghe, dùng lời lẽ xúc phạm, đánh đập, bóp cổ, hăm dọa chị làm cho chị lo lắng, sợ hải. Chị thấy tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn rất trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hồ Văn T.

Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Hồ Minh T, sinh ngày 02/4/2021. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T đến tuổi thành niên và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 2.000.000 đồng cho đến khi cháu T thành niên (Đủ 18 tuổi).

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án chị T có đơn đề nhị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Tại bản tự khai và tại phiên tòa bị đơn anh Hồ Văn T trình bày: Anh với chị Trần Minh T tự nguyện tìm hiểu và xây dựng gia đình, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Đại, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam vào năm 2021. Trong quá trình chung sống anh và chị T không phát sinh mâu thuẫn, nhưng chị T có mâu thuẫn với gia đình anh, chị T tự ý mang con đi trong đêm khuya, từ đó đến nay đã hơn 02 tháng. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh thống nhất ly hôn theo nguyện vọng của chị T.

Về nuôi con chung: vợ chồng anh có 01 con chung là Hồ Minh T, sinh ngày 02/4/2021. Khi ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con đến tuổi thành niên, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Ninh tham gia phiên tòa: Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng; Nguyên đơn và bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Minh T. Về hôn nhân: Áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Trần Minh T và anh Hồ Văn T ly hôn. Về nuôi con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Hồ Minh T cho chị T nuôi dưỡng, anh T phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Về chia tài sản chung, nợ chung: Hai bên đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Minh T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và yêu cầu giải quyết về nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Hồ Văn T cư trú tại thôn K, xã Đ, huyện N, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự [2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Minh T víi anh Hồ Văn T tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Đại, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam vào năm 2021 là hôn nhân hợp pháp. Chị T cho rằng vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T hay đi chơi khuya, uống rượu, ít quan tâm đến vợ con. Khi chị góp ý thì anh T không nghe, dùng lời lẽ xúc phạm, đánh đập, bóp cổ, hăm dọa chị làm cho chị lo lắng, sợ hải. Chị thấy tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn rất trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hồ Văn T. Anh T cho rằng trong quá trình chung sống anh và chị T không phát sinh mâu thuẫn, nhưng chị T có mâu thuẫn với gia đình anh, chị T tự ý mang con đi trong đêm khuya, từ đó đến nay đã hơn 02 tháng; nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh thống nhất ly hôn theo nguyện vọng của chị T. Xét thấy, Mâu thuẫn giữa chị T và anh T thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị T và anh T có 01 con chung là Hồ Minh T, sinh ngày 02/4/2021. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền 2.000.000 đồng. Khi ly hôn anh T có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi) và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng được tiếp tục nuôi con của chị T và anh T là chính đáng. Xét thấy, cháu T hiện nay dưới 36 tháng tuổi nên phải giao cho chị T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu T thành niên (Đủ 18 tuổi) là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung Hồ Minh T, mỗi tháng số tiền 2.000.000 (Hai triệu) đồng cho đến khi cháu T thành niên (Đủ 18 tuổi). Anh T không đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị T mà anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung Hồ Minh T, mỗi tháng số tiền 1.000.000 (Một triệu) đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7/2022 cho đến khi cháu T thành niên (Đủ 18 tuổi), phương thức cấp dưỡng: Hàng tháng. Xét thấy, mức cấp dưỡng mà chị T yêu cầu là quá cao. Xét mức cấp dưỡng nuôi con mà anh T đồng ý là phù hợp với quy định của pháp luật (không dưới ½ mức lương cơ sở, mức lương cơ sở hiện đang được áp dụng là 1.490.000 đồng: 2 = 745.000 đồng) nên mức cấp dưỡng nuôi con chung của anh T được chấp nhận.

[2.4] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh T đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Trần Minh T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh Hồ Văn T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội khoá XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Minh T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Minh T và anh Hồ Văn T ly hôn.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Hồ Minh T, sinh ngày 02/4/2021 cho chị Trần Minh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi). Anh Hồ Văn T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu T, mỗi tháng số tiền 1.000.000 (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7/2022 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi; phương thức cấp dưỡng: Hàng tháng. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về chia tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Chị Trần Minh T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số:

0010379 ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam; Chị T đã nộp xong tiền án phí. Anh Hồ Văn T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/6/2022). Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 70/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Ninh - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;