Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 70/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 149/2021/TLST-HNGĐ ngày 02/7/2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 221/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15/12/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Huệ N (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Chỗ ở hiện nay: ấp A, xã B, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Võ Hoàng H. Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2021 nguyên đơn chị Trần Thị Huệ N trình bày: Chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H quen biết và yêu thương nhau vào năm 2016, được gia đình 02 bên đồng ý nên chị và anh Nguyễn Võ Hoàng H tổ chức lễ cưới vào tháng 10/2017. Năm 2018 chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/4/2018.

Sau khi kết hôn thì chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H chung sống hạnh phúc và có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018.

Đến tháng 10/2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tình tình không hòa hợp. Chị và anh H đã nhiều lần trao đổi, cố gắng khắc phục nuôi con nhưng không được nên chị và anh H đã ly thân từ tháng 10/2019 cho đến nay.

Hiện nay, chị và con là bé Nguyễn Hoàng Gia B đã về nhà cha, mẹ ruột ở ấp A, xã B, huyện G, tỉnh Kiên Giang sinh sống.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên chị Trần Thị Huệ N yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Võ Hoàng H.

Về con chung: Chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018 cho đến khi con đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh Nguyễn Võ Hoàng H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Theo đơn xin vắng mặt đề ngày 12/7/2021, bị đơn anh Nguyễn Võ Hoàng H trình bày: Anh Nguyễn Võ Hoàng H đồng ý theo nội dung đơn khởi kiện của chị Trần Thị Huệ N xin ly hôn với anh, yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, anh yêu cầu Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh trong phiên tòa giải quyết vụ án vì hiện nay anh bận đi làm.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nguyên đơn chị Trần Thị Huệ N và bị đơn anh Nguyễn Võ Hoàng H đều có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn chị Trần Thị Huệ N đối với anh Nguyễn Võ Hoàng H, cho chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; về con chung: Hiện nay, cháu Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018 đang do chị Trần Thị Huệ N trực tiếp nuôi dưỡng, chị Trần Thị Huệ N cũng có công việc ổn định đảm bảo đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu đến tuổi trưởng thành, phía anh Nguyễn Võ Hoàng H cũng đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Huệ N. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết giao cháu Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018 cho chị Trần Thị Huệ N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Gia B đủ 18 tuổi, anh Nguyễn Võ Hoàng H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Trần Thị Huệ N không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Huệ N trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Theo đơn khởi kiện nguyên đơn chị Trần Thị Huệ N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Võ Hoàng H; Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018 cho đến khi con đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh Nguyễn Võ Hoàng H cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Huệ N trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng thụ lý vụ án xác định quan hệ pháp luật giải quyết “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Nguyên đơn chị Trần Thị Huệ N và bị đơn anh Nguyễn Võ Hoàng H có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/4/2018 cho nên quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, giữa chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tình tình không hòa hợp, hai người đã không còn chung sống với nhau từ tháng 10/2019 cho đến nay. Cho nên chị Trần Thị Huệ N đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Võ Hoàng H. Phía anh Nguyễn Võ Hoàng H đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh Nguyễn Võ Hoàng H đều vắng mặt. Đồng thời, anh Nguyễn Võ Hoàng H đã có văn bản trình bày ý kiến là anh đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Huệ N. Từ đó cho thấy mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa hai người là trầm trọng, cuộc sống chung không có cơ sở để tồn tại, dẫn đến mục đích hôn nhân xây dựng gia đình hạnh phúc không thể đạt được. Do vậy việc chị Trần Thị Huệ N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Võ Hoàng H là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Huệ N và giải quyết cho chị Trần Thị Huệ N được ly hôn với anh Nguyễn Võ Hoàng H.

[2] Về con chung: Chị Trần Thị Huệ N và anh Nguyễn Võ Hoàng H có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018. Chị Trần Thị Huệ N yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng Gia B đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh Nguyễn Võ Hoàng H cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện nay cháu Nguyễn Hoàng Gia B do chị Trần Thị Huệ N trực tiếp nuôi dưỡng, chị Trần Thị Huệ N cũng có công việc ổn định đảm bảo đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng Gia B đến tuổi trưởng thành. Đồng thời, anh Nguyễn Võ Hoàng H cũng đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Huệ N. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định cho cháu Nguyễn Hoàng Gia B nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Nguyễn Hoàng Gia B cho chị Trần Thị Huệ N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Gia B đủ 18 (Mười tám) tuổi.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Võ Hoàng H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Trần Thị Huệ N không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Huệ N trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Từ những phân tích nêu trên nhận thấy đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí sơ thẩm: Chị Trần Thị Huệ N phải chịu án phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn số tiền 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Huệ N.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Huệ N được ly hôn với anh Nguyễn Võ Hoàng H.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 24/3/2018 cho chị Trần Thị Huệ N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Hoàng Gia B đủ 18 (Mười tám) tuổi. Anh Nguyễn Võ Hoàng H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Trần Thị Huệ N không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Võ Hoàng H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Huệ N trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Trần Thị Huệ N phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền số AA/2017/0008697 ngày 28 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng; Như vậy, chị Trần Thị Huệ N đã nộp xong án phí sơ thẩm.

Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để xin Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 70/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;