Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 58/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 58/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2022/TLST-HNGĐ ngày 05/01/2022 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 43/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 03 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1998. Địa chỉ: Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1994.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.

3. Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1968, địa chỉ: Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự và người làm chứng đều vắng mặt. (Chị Đ có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Nguyễn Thị Đ trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 30 tháng 5 năm 2018 tại UBND Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng nửa năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng chưa được tìm hiểu kĩ dẫn tới nhiều bất đồng về quan điểm trong cuộc sống cũng như công việc. Sau đó, do vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, to tiếng nên chị Đ đã bỏ về nhà ngoại sống và vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Đến tháng 6/2019, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Khi đó, con chung của chị Đ và anh T là cháu Nguyễn Gia H được hơn 01 tháng tuổi nhưng anh T không hề quan tâm vợ con. Dù nhiều lần được bạn bè và gia đình khuyên nhủ để vợ chồng hàn gắn nhưng anh T không đồng ý và đã cắt đứt liên lạc hoàn toàn với chị Đ. Chị Đ xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị Đ và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 03/5/2019. Hiện nay, cháu Nguyễn Gia H đang ở cùng chị Đ tại Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương. Khi ly hôn, chị Đ có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung do cháu vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của mẹ. Bản thân chị Đ hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Đề nghị Tòa án giao cho chị Đ được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị Đ không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bà Nguyễn Thị T1 là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn T. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 05/01/2022 và 28/02/2022, bà T1 trình bày: Anh T và chị Đ được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 30 tháng 5 năm 2018 tại UBND Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương. Hiện nay, anh T đang lao động tại Đài Loan. Anh T đã được bà thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án. Anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh T đồng ý ly hôn chị Đ. Do anh T không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Đài Loan và bản thân bà T1 cũng không nắm được nên ông không thể cung cấp cho Tòa án. Về con chung, chị Đ, anh T có có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 03/5/2019. Khi ly hôn, anh T đồng ý để chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu H do anh T đang lao động ở nước ngoài không đủ điều kiện để chăm sóc cho con chung.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 3198/QLXNC-P5 ngày 17/02/2022 thể hiện: Anh Nguyễn Văn T, sinh ngày 28/02/1994, có thông tin xuất, nhập cảnh nhiều lần; lần cuối xuất cảnh ngày 16/6/2019 bằng hộ chiếu số C7027941 qua cửa khẩu Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Tại phiên tòa, chị Đ, anh T, bà T1 đều vắng mặt (chị Đ có đơn xin xét xử vắng mặt).

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết : Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị Đ và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận xử cho chị Nguyễn Thị Đ ly hôn anh Nguyễn Văn T; về con chung, giao cháu cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 03/5/2019 cho chị Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Chị Đ phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Đ có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Văn T, là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Hải Dương, hiện đang sinh sống tại Đài Loan. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa, chị Đ vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ và anh T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 30 tháng 5 năm 2018 tại UBND Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng chưa được tìm hiểu kĩ dẫn đến bất đồng về quan điểm sống, cuộc sống hôn nhân không hòa hợp, thường xuyên to tiếng, cãi nhau. Đến năm 2019, do mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, chị Đ bỏ về nhà ngoại sinh sống còn anh T sang sinh sống và lao động tại Đài Loan. Từ khi đi nước ngoài, anh T không còn liên lạc, hỏi thăm vợ con và vợ chồng cũng ly thân từ đó đến nay. Chị Đ xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị Đ, anh T cũng được gia đình anh T xác nhận. HĐXX xét thấy, hôn nhân của chị Đ và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mỗi người ở một nước khác nhau, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị Đ ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị Đ và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 03/5/2019. Hiện nay, cháu Nguyễn Gia H đang ở cùng chị Đ tại Xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương. Do cháu H vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của cha mẹ. Bản thân chị Đ hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Do đó, chị Đ đề nghị Tòa án cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Bản thân chị Đ có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Anh T đang lao động tại Đài Loan, chưa thể về nước. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho chị Đ nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này, anh T có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị Đ tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này chị Đ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị Đ và anh T không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Đ. Xử cho chị Nguyễn Thị Đ ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 03/5/2019 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị Đ tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Đ có quyền khởi kiện yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2020/0004670 ngày 05/01/2022. Chị Đ đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 58/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:58/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;