Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ngọc Lặc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 77/2022/TLST - HNGĐ ngày 22/4/2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07/7/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T – Sinh năm 1993 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn PL, xã MT, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Bùi Văn H - Sinh năm 1992 (Vắng mặt lần thứ 2).

Địa chỉ: Làng Z, xã KT, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai chị Vũ Thị T trình bày: Chị và anh Bùi Văn H tự nguyện sống chung với nhau từ tháng 11/2010, nhưng đến ngày 03/10/2011 chị và anh H mới đến UBND xã KT, huyện Ngọc Lặc, làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không thống nhất cách làm ăn và cư sử trong gia đình. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng kể từ tháng 01/2014 và vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn H theo quy định của pháp luật.

Về con cái: Chị và anh Bùi Văn H có 01 con chung là Bùi Minh Đ - Sinh ngày 15/7/2013. Vợ chồng ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu Bùi Minh Đ cho chị chăm sóc nuôi dưỡng và chị tự nguyện không yêu cầu anh Hcấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị và anh H không có tài sản chung, cũng không có tài sản riêng, nên về phần tài sản chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Bùi Văn H mặt theo địa chỉ ghi trong đơn khởi kiện, khi Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho anh H thì không gặp được anh H, Tòa án đã giao các loại văn bản tố tụng cho bà Bùi Thị K là mẹ đẻ của anh H, bà K trình bày: Anh H là con trai và chị T là con dâu của bà. Vợ chồng chị T và anh H phát sinh mâu thuẫn như thế nào thì bà không biết, bà chỉ nghe anh H và chị T nói với nhau là hai người sẽ ly hôn. Anh H và chị T có 01 con chung là Bùi Minh Đ - Sinh ngày 15/7/2013, kể từ khi chị T và anh H sống ly thân, chị T là người chăm sóc nuôi dưỡng cháu Đ. Sau khi nhận được các văn bản của Tòa án, bà đã thông báo cho anh H biết, anh H có nói với bà là anh H đồng ý với yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị T, nhưng hiện nay anh H đang bận đi làm, không thể tham gia giải quyết vụ án tại tòa được. Tòa án xét thấy việc anh Bùi Văn H vắng mặt thuộc trường hợp bị đơn từ chối khai báo, nên tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Việc tuân theo pháp luật Tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật, việc bị đơn vắng mặt tại các phiên họp, phiên hòa giải và tại phiên tòa là bị đơn tự bỏ đi quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xử cho chị Vũ Thị T được ly hôn anh Bùi Văn H và giao cháu Bùi Minh Đ cho chị Vũ Thị T nuôi dưỡng, chăm sóc, chấp nhận sự tự nguyện của chị T về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung và buộc chị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về hôn nhân: Căn cứ lời trình bày chị Vũ Thị và giấy chứng nhận kết hôn giữa anh Bùi Văn H và chị Vũ Thị T, đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị T và anh Bùi Văn H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét nguyện vọng ly hôn của chị Vũ Thị T thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Văn H không trình bày ý kiến về việc chị Vũ Thị T xin ly hôn, không tham gia phiên họp, phiên hòa giải, không tham gia phiên tòa và theo xác nhận của bà K mẹ của anh H, thì anh H cũng đồng ý ly hôn với chị T, điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị T là phù hợp.

[2]. Về con chung: Căn cứ lời trình bày của chị Vũ Thị T và giấy khai sinh của cháu Bùi Minh Đ đủ cơ sở xác định chị T và anh H có 01 con chung là Bùi Minh Đ – Sinh ngày 15/7/2013. Xét đề nghị xin được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị T thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án anh H không trình bày ý kiến về việc giao nuôi con, nên không có căn cứ giao con cho anh H. Đề nghị xin được nuôi con của chị T phù hợp với nguyện vọng của cháu Bùi Minh Đ, nên chấp nhận đề nghị của chị T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3]. Về tài sản: Chị Vũ Thị T không đề nghị Toà án giải quyết và trong quá trình giải quyết vụ án anh Bùi Văn H cũng không có ý kiến về phần tài sản, nên về phần tài sản Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về trình tự thủ tục giải quyết vắng mặt anh Bùi Văn H Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong đơn khởi kiện chị T ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện là anh Bùi Văn H và anh H đã được Tòa án tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, việc anh H vắng mặt không tham gia phiên họp, phiên hòa giải và không tham gia phiên tòa là thuộc trường hợp bị đơn từ chối khai báo, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung là phù hợp với quy định tại Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao, Hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử xét thấy: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227 và khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Vũ Thị T.

* Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Tám được ly hôn anh Bùi Văn H.

* Về con cái: Giao cháu Bùi Minh Đ – Sinh ngày 15/7/2013 cho chị Vũ Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Vũ Thị T về việc không yêu cầu anh Bùi Văn H cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Bùi Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, ngăn cấm.

* Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số: AA/2021/0000114 ngày 22/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Lặc. Chấp nhận chị Vũ Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T và anh Bùi Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;