Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 146/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn Q2, phường Long A, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1995.

ĐKHKTT: Thôn Q2, phường Long A, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Chỗ ở hiện nay: Thôn Q3, phường Long A, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị L, vắng mặt anh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hữu Đ kết hôn với nhau năm 2015, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hoằng A, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng nhất từ tháng 9/2019, anh chị đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhưng không có kết quả.

Nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là cháu Nguyễn Hữu Đức M, sinh ngày 29/12/2015. Ly hôn chị L đề nghị Tòa án giao cháu M cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung với chị mỗi tháng 2.000.000 đồng. Hiện nay chị làm công nhân tại Công ty TNHH giày Roll Sport Việt Nam, thu nhập ổn định từ 5.000.000 đồng/tháng, kể từ khi vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay chị và cháu M sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ của chị, chị vẫn nuôi dưỡng, chăm sóc cháu M phát triển tốt về mọi mặt.

Về tài sản, công nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Hữu Đ đến Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Đ không có mặt tại Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp.

Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: Chị L và anh Đ thời gian chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh chị là do quan điểm sống không đồng nhất nên vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm, cãi nhau. Từ năm 2020 cho đến nay, chị L không sinh sống tại địa phương nữa, còn anh Đ vẫn sinh sống tại thôn Q2, xã Long A, thành phố Thanh Hóa, đến tháng 3/2021 anh Đ đã chuyển về thôn Q3 sinh sống. Nay chị L làm đơn khởi kiện ly hôn anh Đ thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: chị L và anh Đ có 01 con chung như chị L trình bày. Về tài sản, công nợ chung của chị L và anh Đ địa phương không được biết.

Tại phiên tòa, chị L giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: chị đề nghị Tòa án giao cháu Nguyễn Hữu Đức M cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung với chị; về tài sản công nợ: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã tuân thủ thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập và thông báo của Tòa án là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị L, giao cháu M cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị L. Về tài sản, công nợ chung chị Lệ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thanh Hóa. Vì vậy việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Hữu Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt đối với anh Đ.

[3]. Về hôn nhân: Chị L và anh Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn của anh chị cũng đã được hai bên gia đình và chính quyên địa phương hòa giải nhưng không có kết quả. Xác minh tại địa phương thể hiện, trong cuộc sống vợ chồng của chị L và anh Đ có xảy ra mâu thuẫn như chị L trình bày, anh chị đã sống ly thân nhau từ tháng 9/2019 cho đến nay. Anh Đ đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Đ đã không có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp chứng tỏ anh cũng không tha thiết hòa giải để đoàn tụ gia đình. Nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, tại phiên tòa chị tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của chị L, cho chị được ly hôn anh Đ là có cơ sở.

[4]. Về con chung: Chị L và anh Đ có một con chung là cháu Nguyễn Hữu Đức M, sinh ngày 29/12/2015. Ly hôn chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M, quá trình giải quyết vụ án chị Lệ có yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị mỗi tháng 2.000.000 đồng tuy nhiên tại phiên tòa chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị. Việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, chị L hiện nay có thu nhập, chỗ ở ổn định, kể từ khi anh chị sống ly thân cho đến nay, cháu M vẫn do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và đảm bảo tốt về mọi mặt. Mặt khác cháu M hiện nay đang còn nhỏ, cháu cần sự chăm sóc đặc biệt của mẹ, việc rút yêu cầu cấp dưỡng của chị là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung của chị L có cơ sở để chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản, công nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Lệđược ly hôn anh Nguyễn Hữu Đ.

Về con chung: Chị L và anh Đ có một con chung là cháu Nguyễn Hữu Đức M, sinh ngày 29/12/2015. Ly hôn, giao cháu M cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị L.

Anh Đ có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị L phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị L nộp theo biên lai số AA/2019/0012801 ngày 05/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hoá (Chị L đã nộp đủ án phí).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết bản án) ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;