TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 148/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14/9/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phàn Thị B - Sinh năm 1992.
Địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh L- có mặt.
2. BỊ đơn: Anh Lý Văn Tr - Sinh năm 1990.
Địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh L - vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 20/7/2021 và bản tự khai ngày 20/7/2021 cũng như tại phiên tòa, chị Phàn Thị B trình bày: Chị và anh Lý Văn Tr kết hôn vào ngày 21/11/2014 tại Ủy ban nhân dân xã Bản cầm, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Trường không tu chí làm ăn, hay chơi game và ngủ lại quán game, thường xuyên không về nhà, không quan tâm đến vợ con, không chăm lo đến cuộc sống gia đình. Chị cũng đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh Trường vẫn không sửa chữa thay đổi. Từ đó vợ chồng thường xuyên xô xát đánh cãi chửi nhau làm ảnh hưởng đến con cái. Mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng tình cảm vẫn không cải thiện được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, mỗi người một nơi, không còn quan tâm đến nhau. Bản thân chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên đến nay chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lý Văn Tr.
Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 01 người con chung là cháu Lý Huyền Tr, sinh ngày: 03/12/2015, hiện tại cháu phát triển bình thường và đang ở cùng chị. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh Bình cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung và công nợ chung: Anh chị tự thỏa thuận về tài sản, không nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh Lý Văn Tr không đến Tòa án để viết bản tự khai và giải quyết vụ án.
Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận không khai chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên Toà án không hòa giải được về quan hệ hôn nhân vì vắng mặt bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phàn Thị B khởi kiện xin ly hôn với anh Lý Vãn Tr. Bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Bản cầm, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phàn Thị B và anh Lý Văn Tr là hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh Trường không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con, không chăm lo đến cuộc sống gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, cuộc sống không hạnh phúc, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay không còn quan tâm đến nhau, mỗi người một nơi. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh Lý Văn Tr không đến Tòa án để viết bản tự khai và giải quyết vụ án. Mâu thuẫn của vợ chồng chị Bình đã được địa phương xác nhận là đúng sự thật.
Vì vậy việc chị Bình xin ly hôn với anh Trường là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Do anh Lý Văn Tr không đến Tòa án để viết bản tự khai và giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt anh Trường là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về con chung: Anh chị có 01 người con chung là cháu Lý Huyền Tr, sinh ngày: 03/12/2015, hiện tại cháu phát triển bình thường và đang ở cùng chị Bình. Khi ly hôn chị Bình có nguyện vọng được là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh Trường cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, từ khi anh chị ly thân đến nay thì cháu Trang ở với chị Bình và do chị trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Quá trình giải quyết vụ án, anh Trường mặc đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Trường không đến Tòa án để trình bày quan điểm cũng như nguyện vọng của mình. Chị Bình đã cung cấp bảng lương thể hiện về mức thu nhập của bản thân, hiện tại chị có nhà ở ổn định. Vì vậy cần tiếp tục giao cháu Lý Huyền Tr cho chị Bình tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Do chị Bình không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, chị Bình trình bày vợ chồng chị không có tài sản chung, không nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu tòa án giải quyết; Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Bình phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật;.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
1. Xử cho chị Phàn Thị B được ly hôn với anh Lý Văn Tr.
2. Về con chung: Giao cháu Lý Huyền Tr, sinh ngày: 03/12/2015 cho chị Phàn Thị B được trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Lý Văn Tr không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, anh Lý Văn Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phàn Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0002628 ngày 20/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; Chị Phàn Thị B đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 51/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về