Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 47/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 47/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 298/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 34/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1986, Địa chỉ: Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương (Có mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1986.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Nhật Bản. (Vắng mặt)

3. Người làm chứng: Ông Trần Văn O, sinh năm 1963, địa chỉ: Xã L, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh và chị Trần Thị T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 14 tháng 9 năm 2015 tại UBND Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống và mẫu thuẫn trong vấn đề kinh tế của gia đình dẫn đến to tiếng, cãi nhau. Đến năm 2019, trong thời gian anh H đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, chị T đã tự ý cùng con bỏ về nhà ngoại ở từ đó đến nay. Sau đó, khoảng cuối năm 2019, chị T cũng đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản và không trực tiếp nuôi dưỡng con chung mà để ông bà ngoại nuôi dưỡng. Khi biết tin, anh H đã quay về Việt Nam vào đầu năm 2020 để đón con về trực tiếp nuôi dưỡng đến nay. Anh H xác định chị T không còn quan tâm tới gia đình, bỏ bê trách nhiệm của người mẹ, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau nữa, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau và ly thân từ đó đến nay. Anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trần Thị T.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh H và chị T có 01 con chung là cháu Nguyễn Ánh T1, sinh ngày 21/7/2016. Hiện nay, cháu Nguyễn Ánh T1 đang ở cùng anh H tại Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Khi ly hôn, anh H có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung do cháu vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của cha. Bản thân anh H hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Đề nghị Tòa án giao cho anh H được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Anh H không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Trần Văn O là bố đẻ của chị Trần Thị T. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 22/12/2021 và 17/02/2022, ông O trình bày: Chị T và anh H được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 14 tháng 9 năm 2015 tại UBND Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Hiện nay, chị T đang lao động tại Nhật Bản. Chị T đã được ông thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị T nhất trí đồng ý ly hôn anh H. Do chị T không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Nhật Bản và bản thân ông O cũng không nắm được nên ông không thể cung cấp cho Tòa án. Về con chung, anh H, chị T có có 01 con chung là cháu Nguyễn Ánh T1, sinh ngày 21/7/2016. Khi ly hôn, chị T đồng ý để anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu T do chị T đang lao động ở nước ngoài không đủ điều kiện để chăm sóc cho con chung.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 1136/QLXNC-P5 ngày 11/01/2022 thể hiện: Chị Trần Thị T, sinh ngày 13/01/1986, có thông tin xuất, nhập cảnh nhiều lần; lần cuối xuất cảnh ngày 24/12/2020 bằng hộ chiếu số C4862651 qua cửa khẩu Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Tại phiên tòa, chị T, ông O đều vắng mặt không có lý do, có mặt anh Nguyễn Văn H. Anh H xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trần Thị T và giao cháu Nguyễn Ánh T1, sinh ngày 21/7/2016 cho anh trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết : Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ và phần trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa cho thấy mâu thuẫn của anh H và chị T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận xử cho anh Nguyễn Văn H ly hôn chị Trần Thị T; về con chung, giao cháu cháu Nguyễn Ánh T1, sinh ngày 21/7/2016 cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Anh H phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với chị Trần Thị T, là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Hải Dương, hiện đang sinh sống tại Nhật Bản. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa, anh H có mặt, chị T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 14 tháng 9 năm 2015 tại UBND Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống và mẫu thuẫn trong vấn đề kinh tế của gia đình dẫn đến to tiếng, cãi nhau. Đến năm 2019, trong thời gian anh H đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, chị T đã đưa con bỏ về nhà ngoại sinh sống rồi sau đó đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản. Khi biết tin chị T đi lao động ở nước ngoài, không trực tiếp nuôi dưỡng con chung mà để ông bà ngoại nuôi dưỡng nên đầu năm 2020, anh H đã quay về Việt Nam để đón con về trực tiếp nuôi dưỡng đến nay. Anh H xác định chị T không còn quan tâm tới gia đình, bỏ bê trách nhiệm của người mẹ, vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau nữa, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau và ly thân từ đó đến nay. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh H, chị T cũng được gia đình chị T xác nhận. HĐXX xét thấy, hôn nhân của anh H và chị T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mỗi người ở một nước khác nhau, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho anh H ly hôn với chị T là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng anh H và chị T có 01 con chung là cháu Nguyễn Ánh T1, sinh ngày 21/7/2016. Hiện nay, cháu Nguyễn Ánh T1 đang ở cùng anh H tại Xã T, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Do cháu T vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của cha mẹ. Bản thân anh H hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Do đó, anh H đề nghị Tòa án cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Bản thân anh H có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Chị T đang lao động tại Nhật Bản, chưa thể về nước. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho anh H nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này, chị T về Việt Nam sinh sống có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do anh H tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu chị T cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này anh H có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Anh H và chị T không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn H. Xử cho anh Nguyễn Văn H ly hôn chị Trần Thị T.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Ánh T1, sinh ngày 21/7/2016 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Anh H tự nguyện không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H có quyền khởi kiện yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Chị Trần Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2020/0004645 ngày 22/12/2021. Anh H đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 47/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;