Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 43/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 07 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ngọc Lặc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 44/2022/TLST - HNGĐ ngày 17/3/2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 20/6/2022 giữa các đương sự Nguyên đơn: Chị Lê Thị T - Sinh năm 1991. (Có mặt).

Nơi ĐKHKTT: Khu phố VH, thị trấn NL, huyện NL. Nơi cư trú: Khu phố CN, thị trấn NL, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa

Bị đơn: Anh Phạm Khắc M - Sinh năm 1987. (Xin xét xử Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố VH, thị trấn NL, huyện NL, Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10/3/2022 và bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Lê Thị T trình bày: Chị và anh Phạm Khắc M chung sống như vợ chồng với nhau từ tháng 9/2009, nhưng đến ngày 30/10/2014 chị và anh M mới đến UBND xã NK, nay là UBND thị trấn NL, huyện NL làm thủ tục đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến tháng 5/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không thống nhất cách làm ăn và cư sử trong gia đình và kể từ tháng 5/2018 đến nay vợ chồng đã sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Khắc M theo pháp luật.

Về con cái: Chị và anh Phạm Khắc M có 02 con chung là Phạm Duy P – Sinh ngày 06/4/2010 và Phạm Bảo – Sinh ngày 24/9/2014. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân cả hai con ở với anh M. Vợ chồng ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết giao cả hai con cho anh M chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi thành niên và chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 08/6/2022 anh Phạm Khắc M trình bày: Anh và chị Lê Thị T tự nguyện chung sống và kết hôn với nhau như chị T trình bày là đúng, vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 6 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không cùng quan điểm sống, khi mâu thuẫn xảy ra đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không hiệu quả. Mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải được, nên từ tháng 5/2018 chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ và vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay chi T làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh đồng ý ly hôn với chị T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con cái: Anh và chị T có 02 con như chị T trình bày là đúng, kể từ khi vợ chồng sống ly thân, anh là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung. Anh đồng ý với đề nghị của chị T về việc giao cả hai con cho anh chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, anh tự nguyện không yêu cầu chị Trang cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Việc tuân theo pháp luật Tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự thực hiện việc tuân theo pháp luật là phù hợp với quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xử cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Phạm Khắc M. Giao cả hai con là Phạm Duy P và Phạm Bảo A cho anh Phạm Khắc M chăm sóc nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh Phạm Khắc M về việc không yêu cầu chị Lê Thị T cấp dưỡng nuôi con chung, buộc chị T phải chịu án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về hôn nhân: Căn cứ lời khai của chị T, anh M và Giấy chứng nhận kết hông giữa anh Phạm Khắc M và chị Lê Thị T, đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh M là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét nguyện vọng ly hôn của chị T thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án anh M đồng ý ly hôn và thực tế hai người đã sống ly thân từ tháng 5/2018 đến nay, điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị T là phù hợp.

[2]. Về con chung: Căn cứ lời trình bày của chị T, anh M và giấy khai sinh của cháu P và cháu A, xác định được chị T và anh M có hai con chung là Phạm Duy P – Sinh ngày 06/4/2010 và Phạm Bảo A – Sinh ngày 24/9/2014. Sự thỏa thuận giao nuôi con giữa chị T và anh M phù hợp với nguyện vọng của cháu P và cháu A, nên chấp nhận giao cháu P và cháu A cho anh Minh chăm sóc nuôi dưỡng. Việc anh Minh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện và thực tế kể từ khi vợ chồng sống ly thân từ tháng 5/2018 đến nay cả hai con là do anh M chăm sóc nuôi dưỡng, nên chấp nhận sự tự nguyện của anh M về việc không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

[3]. Về tài sản: Các đương sự không đề nghị Toà án giải quyết, nên về phần tài sản Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về trình tự thủ tục giải quyết vắng mặt anh M là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử xét thấy: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227 và khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lê Thị T.

* Về hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn anh Phạm Khắc M.

* Về con cái: Giao cháu Phạm Duy P – Sinh ngày 06/4/2010 và Phạm Bảo A – Sinh ngày 24/9/2014 cho anh Phạm Khắc M chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Phạm Khắc M về việc không yêu cầu chị Lê Thị T cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Lê Thị T được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, ngăn cấm.

* Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu án phí ly hôn 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ, theo biên lai thu tiền số AA/2021/0000081 ngày 17/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Chấp nhận chị Lê Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 07/7/2022. Anh Phạm Khắc M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 43/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;