Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 41/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

BẢN ÁN 41/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 82A/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXX-ST ngày 31 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé T; sinh năm 1989. HKTT: số 09 Đường B, Phường A, thành phố T, tỉnh L.

Chỗ ở hiện nay: số 30 Đường M, Phường C, thành phố T, tỉnh L.

2. Bị đơn: Ông Phạm Hồ V; sinh năm 1982.

Địa chỉ: số 09 Đường B, Phường A, thành phố T, tỉnh L.

(Nguyên đơn có đơn đề nghi xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không lý do) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 22 tháng 3 năm 2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé T trình bày:

Bà và ông Phạm Hồ V tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, thành phố T, tỉnh L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 67/2012 quyển số 01/2012, cấp ngày 23 tháng 11 năm 2012. Bà xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc được vài năm đầu thì sau đó xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không phù hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vả, ông V không chăm lo cho vợ con, để mình bà gánh vác kinh tế gia đình. Đến tháng 10 năm 2020 thì mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng và đã ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông V.

Về con chung: bà và ông V có 01 con chung tên Phạm Nguyễn Kim T, sinh ngày 11/8/2013 hiện đang sống chung với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị Bé T có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bà xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn ông Phạm Hồ V đã được Tòa án thực hiện việc cấp tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông V không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; không đến tham gia phiên tòa do Tòa án tổ chức; không có văn bản thể hiện ý kiến của bà đối với yêu cầu ly hôn của bà T; không thể hiện ý kiến về nguyện vọng nuôi con chung. Phiên tòa hôm nay, ông V cũng vắng mặt dù đã được cấp tống đạt giấy báo hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Về ý kiến của Viện kiểm sát:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Phạm Hồ V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến tham gia phiên tòa. Bà Nguyễn Thị Bé T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định tại các Điều 227; Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Bé T và ông Phạm Hồ V là quan hệ hôn nhân hợp pháp, do bà T và ông V có mâu thuẫn không thể hàn gắn được, nhận thấy ông V đã biết được việc bà T nộp đơn xin ly hôn nhưng không có ý kiến gì thể hiện sự quan tâm hàn gắn, từ đó có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T, giao con chung Phạm Nguyễn Kim T, sinh ngày 11/8/2013 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Đương sự phải nộp án phí theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: bà Nguyễn Thị Bé T nộp đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với ông Phạm Hồ V có địa chỉ cư trú ở thành phố T, tỉnh L nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc cấp tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập ông V đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng ông V không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt đối với ông V là đúng theo quy định tại Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Bé T và ông Phạm Hồ V tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, thành phố T vào năm 2012 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tòa án cũng đã có xác minh về quan hệ tranh chấp dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng của bà T và ông V tại UBND Phường A, thành phố T, Long An nơi bà T và ông V sinh sống sau khi kết hôn theo quy định tại Điều 208 BLTTDS nhưng địa phương không nắm rõ nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Bé T và ông Phạm Hồ V. Theo lời trình bày của bà T thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính tình không phù hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vả, ông V không chăm lo cho vợ con, để mình bà gánh vác kinh tế gia đình. Xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa bà T và ông V không có tiếng nói chung, không có sự thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Ông V được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, được cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, cho thấy ông V đã biết được việc bà T yêu cầu ly hôn với ông nhưng ông không có văn bản thể hiện ý kiến là muốn được đoàn tụ hoặc đưa ra những biện pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, chứng tỏ rằng trong cuộc sống vợ chồng giữa bà T và ông V đã có những mâu thuẫn không giải quyết được. Hiện bà T xác định đã không còn tình cảm với ông V nên yêu cầu được chấm dứt hôn nhân. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Bà T và ông V có 01 con chung tên Phạm Nguyễn Kim T, sinh ngày 11/8/2013, hiện đang sống chung với bà T. Bà T có nguyện vọng được nuôi con chung khi ly hôn. Cháu Phạm Nguyễn Kim T đã trên 07 tuổi, khi được Tòa án lấy ý kiến thì có nguyện vọng được sống với mẹ. Hiện nay, bà T có thu nhập ổn định đủ khả năng để nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông V cũng không có ý kiến gì về nguyện vọng được nuôi con chung. Vì vây, để đảm bảo cuộc sống ổn định cho con chung, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình và phù hợp nguyên vọng của con chung chưa thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con, ông V cũng không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng cho con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ.

[4] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000đ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Bé T và ông Phạm Hồ V.

Về nuôi con chung:

Giao con chung tên Phạm Nguyễn Kim T, sinh ngày 11/8/2013 cho bà Nguyễn Thị Bé T trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Phạm Hồ V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nguyễn Thị Bé T không có yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con được quyền yêu cầu hạn chế quyền thăm nom nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom làm ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con chung, các bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con chung cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Bé T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu số 0005261 ngày 30/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 41/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;