Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 36/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 21tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Cao Đăng L - Sinh năm 1991 – có mặt Địa chỉ: Phố V, phường Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Th – Sinh năm 1992 – có mặt Địa chỉ: Phố V, phường Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Cao Đăng L trình bày:

Về hôn nhân: Anh Cao Đăng L và chị Nguyễn Thị Th kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2017.

Sau khi kết hôn anh, chị về chung sống cùng với gia đình anh L tại Phố V, phường Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên sảy ra va chạm, cãi nhau, đánh nhau. Đến năm 2019 do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng cô Th đã bế con về nhà mẹ đẻ ở một thời gian, sau khi được hai bên gia đình động viên hòa giải thì cô Th lại bế con về để vợ chồng đoàn tụ, nhưng quá trình chung sống tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện, mâu thuẫn vợ chồng vẫn liên tục sảy ra, do đó từ tháng 03 năm 2021 cô Th lại bế con về nhà mẹ đẻ ở và chúng tôi sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai.

Nay anh L xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh với chị Th thực sự không còn, cuộc sống chung kéo dài, do đó anh đề nghị giải quyết cho anh được ly hôn.

Về con chung: Anh L và chị Th có 01 con chung là cháu Cao Đăng M – sinh ngày 07/9/2018, hiện nay cháu M đang ở với cô Th. Ly hôn anh L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu cô Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ: Anh L không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản khai chị Nguyễn Thị Th trình bày:

Về hôn nhân: Chị Th thống nhất với trình bày của anh L về thời điểm kết hôn, điều kiện kết hôn, thời gian sống ly thân. Theo chị Th nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngoài việc bất đồng quan điểm ra thì giữa chị với mẹ anh L cũng có mâu thuẫn với nhau trong cuộc sống, dẫn đến mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng căng thẳng hơn. Do đó vợ chồng đã nhiều lần sống ly thân nhau.

Nay anh L làm đơn xin ly hôn thì chị Th không đồng ý vì chị xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị với anh L vẫn còn. Nếu anh L cương quyết xin ly hôn thì chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị Th cũng thống nhất anh, chị có 01 con chung như anh L trình bày.

Ly hôn, chị Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, vì từ khi cháu được sinh ra cho đến nay cho dù anh chị có sống ly thân nhau thì cháu vẫn thường xuyên ở với chị và hiện nay cháu đang còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Chị Th yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ.

Về tài sản, công nợ: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác M tại chính quyền địa phương: Quá trình anh L và chị Th chung sống với nhau tại địa phương có sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh, chị không thể hiện ra bên ngoài và cũng không báo cáo, nên chính quyền địa phương không nắm bắt được. Từ tháng 03 năm 2021 chị Th bế con về nhà mẹ đẻ ở cùng thôn Vĩnh Ngọc và anh chị sống ly thân từ đó cho đến nay. Hiện nay anh L làm nghề lái xe còn chị Th làm nghề kế toán, cả hai anh chị đều làm việc tại thành phố Thanh Hóa. Anh L, chị Th chưa có nhà riêng, nên mỗi bên đều đang ở chung nhà với bố, mẹ.

Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên hòa giải ngày 21/01/2022 và tại phiên tòa anh Cao Đăng L và chị Nguyễn Thị Th đều thuận tình ly hôn, nhưng không thống nhất với nhau về việc nuôi con chung.

Tại phiên tòa anh L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ý kiến của đại diện VKS:

- Về việc chấp hành pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Từ khi thụ lý đến quá trình xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70,71,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện VKS đề nghị HĐXX: Áp dụng: Điều 56; Điều 81; 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Xử:

- Về hôn nhân: Xử cho anh Cao Đăng L được ly hôn với chị Nguyễn Thị Th.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Cao Đăng M. Anh Cao Đăng L cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị Th mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi cháu Cao Đăng M thành niên.

- Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

- Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án Hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” các đương sự có hộ khẩu thường trú tại thành phố Thanh Hóa, là thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh L và chị Th kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống anh, chị hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn và anh, chị đã nhiều lần sống ly thân, sau đó lại quay về đoàn tụ, nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được, nên từ tháng 03 năm 2021 đến nay anh chị sống ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tạo điều kiện cho anh, chị có thời gian để trao đổi, bàn bạc về việc đoàn tụ. Mặt khác bản thân chị Th cũng đã cố gắng để cải thiện tình cảm vợ chồng, nhưng không có kết quả. Nên tại phiên hòa giải và tại phiên tòa cả hai anh, chị đều thống nhất thuận tình ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55 luật HNGĐ công nhận sự thuận tình ly hôn cho anh, chị.

[2] Về con chung: Anh L, chị Th có 01 con chung là cháu Cao Đăng M – sinh ngày 07/9/2018.

Ly hôn cả hai anh, chị đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con. Xét nguyện vọng về việc được trực tiếp nuôi con của cả hai anh chị là hoàn toàn chính đáng, nhưng việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo tốt nhất cho sự phát triển về mọi mặt của cháu thì cần căn cứ vào điều kiện chăm sóc con của mỗi bên.

Hiện nay anh L đang làm hợp đồng lái xe cho Công ty tại khu Công nghiệp Tây Bắc Ga, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, mức lương thu nhập dao động từ 08 đến 12 triệu đồng, nhưng theo bảng chấm công anh L xuất trình cho Tòa án thì anh L thường xuyên phải làm tăng ca, có tháng anh làm tăng ca đến 24 ngày và có ngày anh phải làm tăng ca đến 06 tiếng đồng hồ, còn chị Th hiện nay đang là kế toán cho Công ty tại Phường Phú Sơn, thành phố Thanh Hóa. Thu nhập mỗi tháng từ 09 đến 10 triệu đồng, thời gian làm việc theo giờ hành chính và được nghỉ thứ 7. Do đó chị Th sẽ có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con tốt hơn.

Mặt khác từ khi cháu M được sinh ra cho đến nay hầu như cháu sống cùng với chị Th, kể cả trong thời gian anh chị sống ly thân và hiện nay cháu đang còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ.

Do đó HĐXX căn cứ vào Điều 81, 82, 83 luật Hôn nhân và gia đình giao cháu Cao Đăng M cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th mỗi tháng 2.000.000đ. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 03 năm 2022 cho đến khi cháu Cao Đăng M thành niên Anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở;

[4] Về tài sản, công nợ: Anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Cao Đăng L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí về cấp dưỡng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS và Điểm a Khoản 5 Điều 27; Điểm a Khoản 6 Điều 27 NQ 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Điều 55; Điều 81; 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Điểm a Khoản 2 Điều 482; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 NQ 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016. Xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Cao Đăng L với chị Nguyễn Thị Th.

2. Về nuôi con chung: Anh L và chị Th có 01 con chung là Cao Đăng M – sinh ngày 07/9/2018.

Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Cao Đăng M. Anh Cao Đăng L cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị Th mỗi tháng 2.000.000đ. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 03 năm 2022 cho đến khi cháu Cao Đăng M thành niên.

Anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở;

3. Về tài sản, công nợ: Anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

4. Về án phí: Anh Cao Đăng L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí về cấp dưỡng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ anh đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001306 ngày 27/ 10/ 2021 của Chi cục THADS thành phố Thanh Hoá. Số tiền án phí còn lại anh L phải nộp là 300.000đ.

Chị Nguyễn Thị Th và anh Cao Đăng L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;