TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 266/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoằng Hóa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 157/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Th, Sinh năm 1989. Có đơn xin xét xử mặt. Địa chỉ: thôn Đ, xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Anh Lê Thanh Ph, Sinh năm 1986. Vắng mặt Địa chỉ: thôn Đ, xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 31/5/2021, bản tự khai ngày 15/6/2021, lời trình bày tại phiên Hòa giải của nguyên đơn Chị Hoàng Thị Th thể hiện như sau:
Chị Hoàng Thị Th và Anh Lê Thanh Ph kết hôn với nhau năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và được UBND xã Hoằng Trạch cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30/3/2010. Sau khi cưới vợ chồng hạnh phúc bình thường cho đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là vợ chồng do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung trong gia đình, anh Ph không có trách nhiệm với con cái. Năm 2020 chị Th đã có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa giải quyết cho vợ chồng ly hôn, được Tòa án hòa giải nên chị Th xin rút đơn và vợ chồng đã về đoàn tụ nhưng chỉ được thời gian ngắn thì mâu thuẫn lại xảy ra và vẫn là nguyên nhân cũ không thể cải thiện được. Nay chị xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa giải quyết cho vợ chồng được ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng chị Th anh Ph có 02 con chung là các cháu: Lê Gia B, sinh ngày 19/7/2011 và cháu Lê Gia H, sinh ngày 15/6/2016. Hiện nay cả hai cháu đang sống ở nhà ông bà ngoại cùng chị Th. Nay ly hôn chị Th đề nghị giải quyết theo đề nghị của con.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và công nợ: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo bản tự khai ngày 15/6/2021 của bị đơn Anh Lê Thanh Ph và lời trình bày tại phiên hòa giải thể hiện như sau:
Anh và Chị Hoàng Thị Th tự do tìm hiểu và tổ chức cưới được UBND xã Tr cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30/3/2010. Sau khi cưới vợ chồng hạnh phúc bình thường cho đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do vợ chồng cũng hay khúc mắc và cãi nhau còn vấn đề muốn chia tay là do chị Th đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Nay chị Th làm đơn xin ly hôn anh Ph không muốn ảnh hưởng đến con cái nên đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng cùng chăm lo cho con cái.
Về con chung: Vợ chồng chị Th anh Ph có 02 con chung là các cháu: Lê Gia B, sinh ngày 19/7/2011 và cháu Lê Gia H, sinh ngày 15/6/2016. Nếu phải ly hôn thì nguyện vọng của anh Ph là muốn được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và công nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo bản tự khai ngày 15/6/2021 của cháu Lê Gia B thể hiện như sau:
Cháu là con của bố Ph và mẹ Th nếu bố mẹ không ở cùng nhau thì nguyện vọng của cháu muốn được ở cùng mẹ.
* Quan điểm của Đại diện VKS tham gia phiên tòa:
+ Về tố tụng: Việc thụ lý vụ án của Tòa án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng, thực hiện đúng quy định về thủ tục lấy lời khai, tiến hành công khai chứng cứ, đảm bảo đúng các thủ tục tố tụng khác. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: các bên đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ, đúng trình tự tố tụng.
+ Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét:
Về hôn nhân: Đề nghị HĐXX xử cho Chị Hoàng Thị Th được ly hôn Anh Lê Thanh Ph.
Về con chung: Đề nghị HĐXX giao các cháu Lê Gia B, sinh ngày 19/7/2011 và cháu Lê Gia H, sinh ngày 15/6/2016 cho chị Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; Anh Ph có quyền, nghĩa vụ qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị không xem xét.
Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án nên đề nghị không xem xét. Tại phiên tòa nguyên đơn xin xét xử vắng mặt và không có sự thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ về yêu cầu khởi kiện và các bên không thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Sau khi Hòa giải lần 1, anh Ph có nguyện vọng đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Tòa án đã thông báo phiên Hòa giải lần 2 vào ngày 07/7/2021 nhưng anh Ph vắng mặt. Ngày 02/8/2021 Tòa án đã cùng địa phương đến nhà anh Ph giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử để có mặt tại phiên tòa vào ngày 17/8/2021 nhưng anh Phkhông có mặt ở nhà, Tòa án đã tiến hành niêm yết theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên Tòa ngày 17/8/2021 anh Ph không có mặt, Tòa án ra Quyết định hoãn phiên tòa và ấn định ngày xét xử 09/8/2021 và đã niêm yết công khai tại UBND xã Tr, huyện H, Tại phiên tòa ngày 09/8/2021 chị Th thuộc diện cách ly tại nhà 21 ngày nên Tòa án hoãn phiên tòa và ấn định ngày xét xử 27/9/2021. Tại phiên tòa hôm nay hôm nay anh Ph vẫn không có mặt, chị Th có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án căn cứ vào khoản 1, khoản 2, Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự để xét xử vắng mặt hai bên đương sự.
[2]. Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị Th và Anh Lê Thanh Ph kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn, như vậy về hôn nhân giữa chị Th và anh Ph là hôn nhân hợp pháp.
Theo chị Th sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là vợ chồng do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung trong gia đình, anh Ph không có trách nhiệm với con cái, nay tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Thao anh Ph thì chồng cũng hay khúc mắc và cãi nhau còn vấn đề muốn chia tay là do chị Th đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Nay chị Th là đơn xin ly hôn anh Ph không muốn ảnh hưởng đến con cái nên đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng cùng chăm lo cho con cái.
Xét thấy cả anh Ph và chị Th đều thừa nhận vợ chồng có khúc mắc và bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau nên năm 2020 chị Th đã làm đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, được Tòa án hòa giải vợ chồng về đoàn tụ và chị Th đã rút đơn khởi kiện. Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 296/2020/QĐST – HNGĐ ngày 09/9/2020 nhưng chỉ được thời gian ngắn thì mâu thuẫn lại phát sinh, chị Th đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ đầu năm 2021 và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Anh Ph đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ, Tòa án thông báo phiên hòa giải nhưng anh Ph không đến và tại phiên tòa mở lần 1, lần 2 anh Ph vẫn không có mặt điều đó chứng tỏ anh Ph không thật sự muốn hòa giải để vợ chồng đoàn tụ mà chỉ là đưa ra lý do với mục đích gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Ngày 18/6/2021 Tòa án tiến hành xác minh về tình trạng hôn nhân của chị Th và anh Phtại thôn Hà Đồ và UBND xã Tr thể hiện giữa chị Th và anh Ph có Đăng ký kết hôn tại UBND xã Tr năm 2010, quá trình chung sống thì giữa 2 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn gì thì địa phương không rõ nhưng chỉ thấy nhiều lần mẹ con chị Th bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Đ rồi lại quay về. Hiện nay cả ba mẹ con đều về xã Đ ở, việc chị Th có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vụ án ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tư những căn cứ nêu trên chứng tỏ mâu thuẫn của vợ chồng anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho vợ chồng được ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Về con: Chị Hoàng Thị Th và Anh Lê Thanh Ph đều thống nhất vợ chồng có 02 con chung là các cháu: Lê Gia B, sinh ngày 19/7/2011 và cháu Lê Gia H, sinh ngày 15/6/2016. Hiên nay cả hai cháu đang ở cùng mẹ, chị Th đề nghị được nuôi con theo nguyện vọng của các con và không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Tại bản tự khai và tại phiên hòa giải lần 1 anh Ph cũng có nguyện vọng xin được nuôi cả hai cháu.
Xét thấy hiện nay anh Ph không có mặt tại địa phương và tại phiên tòa vắng mặt nên không xác định được nguyện vọng của anh Ph đối với các con thế nào và hiện nay các cháu đều đang ở cùng mẹ, mặt khác cháu Gia B cũng có nguyện vọng muốn được ở cùng mẹ nên giao các cháu cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[3] Về tài sản: Hai bên không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Chị Hoàng Thị Th là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị Th phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Toà án.
Xử:
1. Về hôn nhân: Xử cho Chị Hoàng Thị Th được ly hôn Anh Lê Thanh Ph.
2. Về nuôi con chung:
Công nhận vợ chồng có 02 con chung là các cháu Lê Gia B, sinh ngày 19/7/2011 và cháu Lê Gia H, sinh ngày 15/6/2016.
Giao các cháu Lê Gia B, sinh ngày 19/7/2011 và cháu Lê Gia H, sinh ngày 15/6/2016 cho Chị Hoàng Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Ph có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về tài sản: Chị Th và anh Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Chị Hoàng Thị Th phải chịu 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số: AA/2019/0010408 ngày 31/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa (Chị Th đã nộp đủ).
5. Về quyền kháng cáo: Chị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 266/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 266/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về