Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXX-ST ngày 30 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H – SN: 1985. “Có mặt” HKTT và địa chỉ hiện nay: Số nhà 41 phố T, phường Q, TP T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ - SN: 1985. “Vắng mặt” HKTT: Số 12/207 N, Phố Quang Tr, phường Đông H , thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Địa chỉ hiện nay: Số 151 N, Phố Quang Tr, phường Đông H, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đông H (nay là phường Đông H), TP T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, quan điểm cách sống khác nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên anh chị đã sống ly thân nhau từ tháng 8 năm 2020 cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con:Anh chị có 01 con chung: Cháu Nguyễn Phạm Việt A, sinh ngày 20/8/2011. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi cháu Việt A. Tại đơn khởi kiện chị H đề nghị anh Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án chị thay đổi quan điểm không đề nghị anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai anh Nguyễn Văn Đ trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn anh đồng ý như chị H đã trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Anh Đ đã gặp chị H nhiều lần để hòa giải nhưng không có kết quả. Do vợ chồng mâu thuẫn nên chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống từ tháng 8/2020 đến nay. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh không đồng ý ly hôn với chị H.

Về con: Anh chị có 01 con chung như chị H trình bày là đúng. Do không đồng ý ly hôn nên anh không có quan điểm về vấn đề con.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai: Cháu Nguyễn Phạm Việt A trình bày nguyện vọng, nếu bố mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng sống với mẹ.

Tại phiên tòa hôm nay chị H vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và bổ sung thêm ý kiến, cung cấp thêm tài liệu chứng cứ chứng minh chị có công việc và thu nhập ổn định đủ khả năng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành của nguyên đơn, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Đ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng anh Đ vắng mặt, Tòa án tiền hành xử vắng mặt anh Đ là đúng quy định của điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của BLTTDS.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, bị đơn cư trú tại thành phố T. Do vậy Tòa án thành phố thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án anh chị đều thừa nhận vợ chồng chung sống có mâu thuẫn xảy ra và đã sống ly thân nhau. Chị H cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài trong thời gian dài, đến nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị được ly hôn với anh Đ. Quan điểm của anh Đ mặc dù vợ chồng có mâu thuẫn nhưng anh vẫn không đồng ý ly hôn với chị H.

Kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: quá trình anh chị chung sống đã có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào địa phương không biết được.

Mặc dù anh Đ không đồng ý ly hôn nhưng anh cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa hôm nay chị H vẫn cương quyết xin được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống chung của vợ chồng cũng không cải thiện được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn với anh Đ là phù hợp.

Về con: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Phạm Việt A. Nguyện vọng của chị H đề nghị được nuôi cháu Việt A, anh Đ không có quan điểm về vấn đề nuôi con. Qua ý kiến trình bày của các đương sự và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xác minh tại địa phương thì chị H, anh Đ đều có việc làm và thu nhập ổn định. Tuy nhiên cháu Việt A lại đang còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ, nguyện vọng của cháu mong muốn ở với mẹ. Vì vậy giao cháu Việt A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình .

Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị H không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, anh Đ không có ý kiến gì về phần cấp dưỡng nuôi con . Xét yêu cầu của chị H là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Về tài sản, công nợ: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luât. Căn cứ khoản 4 Điều 147 BLTTDS, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/QH14.

Về quyền kháng cáo: Chị H và anh Đ được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, thời hạn kháng cáo được quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 273 BLTTDS. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân:Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Phạm Việt A, sinh ngày 20/8/2011 là con chung của chị H và anh Đ. Giao cháu Việt A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Đ có quyền đi lại thăm nom con chung, không được ai cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí: Chị H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001315 ngày 27/10/2021 tại chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị H đã nộp đủ án phí).

Chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;