Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2022, về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 01 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Địch Thị S, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai nguyên đơn chị Địch Thị S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn T kết hôn năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T1 (nay là xã T), huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Trước khi kết hôn, anh chị có được tự do tìm hiểu nhau, không bị ai ép buộc, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, đến khoảng cuối năm 2018, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm sống, thường hay xích mích, cãi vã dẫn đến cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, không có hạnh phúc. Từ khoảng tháng 9/2019, do anh T nghi ngờ chị có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác, không tin tưởng chị, đã chửi, tát và đuổi chị ra khỏi nhà. Kể từ đó, hai vợ chồng chị sống ly thân, mặc dù hai bên gia đình đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng chị thấy không còn tình cảm với anh Toản, chị xin được ly hôn với anh.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh Trần Văn T có 02 con chung là Trần Việt T, sinh ngày 15/01/2015 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/11/2016. Khi ly hôn, chị xin được quyền nuôi cả hai con chung là cháu Trần Việt T và cháu Trần Quốc K đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi. Không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Các con chung hiện đều đang ở cùng với chị tại Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Về thu nhập, hiện nay chị đang làm công nhân tại Công ty I, có địa chỉ tại khu công nghiệp N, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Thu nhập hàng tháng trung bình được khoảng 7.000.000 đồng – 9.000.000 đồng nên đảm bảo các điều kiện để nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa chị Địch Thị S vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt tại đơn thể hiện chị vẫn giữ nguyên các nội dung như đã khai tại Tòa án.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trần Văn T vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần. Do không thể thỏa thuận, giải quyết được nội dung vụ án nên Tòa án đã tiến hành các thủ tục theo trình tự tố tụng và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát có quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền, đúng mối quan hệ pháp luật; việc thu thập chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án đúng trình tự và đầy đủ; việc tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng các quy định về tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 51, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Địch Thị S được ly hôn với anh Trần Văn T.

- Về con chung: Căn cứ Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung là Trần Việt T, sinh ngày 15/01/2015 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/11/2016 cho chị Địch Thị S được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom các con chung không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ chị Địch Thị S và anh Trần Văn T, chị Địch Thị S vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Việc vắng mặt của chị S, anh T không gây ảnh hưởng cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Chị Địch Thị S có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về quan hệ hôn nhân, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn nên xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Bị đơn anh Trần Văn T có địa chỉ tại Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập có đủ cơ sở để khẳng định: Năm 2014, chị Địch Thị S và anh Trần Văn T về chung sống với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, anh chị có đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên cuộc hôn nhân này là hợp pháp. Sau khi kết hôn do bất đồng quan điểm sống nên chị S và anh T đã nảy sinh mâu thuẫn, cãi vã, chị S và anh T đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Xét thấy, mục đích của hôn nhân là xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, tin tưởng, thương yêu nhau. Tuy nhiên, tình cảm vợ chồng giữa chị S và anh T không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho chị S được ly hôn với anh T là có căn cứ. Vì vậy, Toà án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Địch Thị S, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Địch Thị S và anh Trần Văn T có với nhau 02 con chung là Trần Việt T, sinh ngày 15/01/2015 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/11/2016, hiện các con đang sống cùng chị S. Tòa án đã tiến hành xác minh các con chung hiện nay đều đang sinh sống ổn định cùng chị S, chị S vẫn đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dạy con. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa án và cũng không đưa ra yêu cầu gì đối với con chung. Chị Địch Thị S hiện nay đang làm công nhân tại Công ty I, có địa chỉ tại khu công nghiệp N, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Thu nhập hàng tháng trung bình được khoảng 7.000.000 đồng – 9.000.000 đồng, thu nhập như vậy đảm bảo đủ các điều kiện để chị S nuôi con. Hơn nữa, cháu Trần Việt T tại biên bản ghi nguyện vọng của con chung, cháu có nguyện vọng được ở cùng với chị S vì từ khi bố mẹ cháu ly thân, anh em cháu vẫn ở ổn định cùng với mẹ. Do đó, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, có căn cứ để chấp nhận cho chị S được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung là Trần Việt T, sinh ngày 15/01/2015 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/11/2016, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

[5] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Địch Thị S phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Chị S, anh T được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Địch Thị S - Xử cho nguyên đơn chị S được ly hôn với bị đơn anh Trần Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Việt T, sinh ngày 15/01/2015 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/11/2016 cho chị Địch Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền đi lại, thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị Địch Thị S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Xác nhận chị Địch Thị S đã nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/2021/0004146, ngày 21 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;