Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 15/9/2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2022/TLS-HNGĐ ngày 24/5/2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16/8/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/9/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị L, sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn B, xã Th, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1986 Địa chỉ: Thôn B, xã Th, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 23/5/2022, được bổ sung tại bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn chị Võ Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn B kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Th, huyện L, tỉnh Quảng Bình ngày 01/10/2007. Quá trình chung sống, vợ chồng không hợp tính tình; anh B không quan tâm đến gia đình, vợ con; năm 2017 chị L đã nộp đơn xin ly hôn anh B nhưng do anh B có xin lỗi và hứa thay đổi nên chị L đã rút đơn khởi kiện. Sau khi về chung sống với nhau một thời gian thì anh B không thay đổi, vợ chồng sống ly thân đã hơn hai năm mà không ai quan tâm đến ai. Vì vậy, chị L yêu cầu Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn B. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Nguyễn Thị Ng, sinh ngày 10/3/2008 và Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 30/7/2011, hiện nay đang do anh B nuôi dưỡng. Nguyện vọng của chị L xin được trực tiếp nuôi hai con và yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Thị Khánh L mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi. Về tài sản 1 chung và nợ chung: Chị L trình bày vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn B: Anh B vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Bản tự khai ngày 10/6/2022, anh B trình bày: Về quan hệ hôn nhân: Quá trình kết hôn và chung sống giống như chị L đã trình bày, anh B thấy thời gian vợ chồng ly thân đã lâu và không còn tình cảm nên đồng ý ly hôn với chị L. Về con chung, anh B trình bày vợ chồng có 02 con chung tên là Nguyễn Thị Ng, sinh ngày 10/3/2008 và Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 30/7/2011, hiện nay đang do anh B nuôi dưỡng. Nguyện vọng của anh B xin được trực tiếp nuôi hai con và yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Thị Khánh L mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi. Về tài sản chung và nợ chung: Anh B trình bày vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự hợp lệ nhưng anh B vắng mặt, do đó vụ án không tiến hành hòa giải được. Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tham gia phiên toà đến các đương sự hợp lệ nhưng bị đơn, anh Nguyễn Văn B vẫn vắng mặt, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất ngày 05/9/2022.

Tại đơn trình bày nguyện vọng đề ngày 10/6/2022, cháu Nguyễn Thị Ng trình bày: Được biết ba mẹ cháu ly hôn nhau cháu không mong muốn, nhưng nếu ba mẹ cháu ly hôn nhau thì cháu có nguyện vọng được ở với ba là Nguyễn Văn B để ổn định việc học hành, có điều kiện chăm sóc tốt hơn.

Tại đơn trình bày nguyện vọng đề ngày 10/6/2022, cháu Nguyễn Thị Khánh L trình bày: Được biết ba mẹ cháu ly hôn nhau cháu không mong muốn, nhưng nếu ba mẹ cháu ly hôn nhau thì cháu có nguyện vọng được ở với mẹ là Võ Thị L để ổn định việc học hành, có điều kiện chăm sóc tốt hơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh B và chị L, nhưng anh B đều vắng mặt. Do đó vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập các đương sự đến tham gia phiên toà ngày 05/9/2022, nhưng bị đơn anh Nguyễn Văn B vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên toà. Tại phiên toà lần thứ hai, bị đơn anh Nguyễn Văn B vẫn vắng mặt, mặc dù Toà án đã tống đạt quyết định hoãn phiên toà hợp lệ. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn B.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị L và anh Nguyễn Văn B kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính tình, không ai chịu nhường nhịn và thông cảm cho ai nên thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Cả chị L và anh B đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung với nhau và đồng ý ly hôn nhau, Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Võ Thị L với anh Nguyễn Văn B là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Võ Thị L và anh Nguyễn Văn B đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi 02 con chung chứng tỏ cả anh và chị đều rất yêu thương và lo lắng cho con cái. Tại đơn trình bày nguyện vọng, cháu Ng mong muốn được sống với ba, còn cháu L mong muốn được sống cùng mẹ. Tuy nhiên, tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Văn B đều vắng mặt không rõ lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử giao 02 con chung Nguyễn Thị Ng, sinh ngày 10/3/2008 và Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 30/7/2011 cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh B gián tiếp nuôi con bằng việc cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Thị Khánh L cùng chị L mỗi tháng 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), thời gian kể từ tháng 10/2022 cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Võ Thị L và anh Nguyễn Văn B thỏa thuận tự phân chia, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 55, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Võ Thị L với anh Nguyễn Văn B.

2/ Về quan hệ con cái: Giao 02 con chung Nguyễn Thị Ng, sinh ngày 10/3/2008 và Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 30/7/2011 cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh B cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Thị Khánh L cùng chị Luận mỗi tháng 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), thời gian kể từ tháng 10/2022 cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3/ Về quan hệ tài sản: Không xem xét.

4/ Về án phí: Chị Võ Thị L phải chịu 75.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm; anh Nguyễn Văn B phải chịu 75.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ. Tiền án phí chị L phải chịu được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 31AA/2021/0004427 ngày 23 tháng 5 năm 2022. Chị Võ Thị L được trả lại 225.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/9/2022); bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú và trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi cư trú để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;