TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 178/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 02 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 161/2021/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 201/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 151/2021/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2021 giữa:
1. Nguyên đơn anh Phạm Văn V – Sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn Tr, xã Ngh, huyện N, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2.Bị đơn: Chị Nguyễn Thị D – Sinh năm 1989. Vắng mặt.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Tr, xã Ngh, huyện N, tỉnh Hải Dương. Hiện đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc).
3. Người làm chứng:
Ông Nguyễn Văn D – Sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Th - Sinh năm 1966. Đều ở địa chỉ: Thôn Tr, xã Ngh, huyện N, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn anh Phạm Văn V trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ngh. huyện N, ngày 24/11/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống hạnh phúc một thời gian, đến năm 2009 anh V đi lao động ở nước ngoài đến năm 2011 thì về nước. Năm 2015 chị D đi lao động ở nước ngoài và vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng nghi ngờ lẫn nhau trong quan hệ tình cảm, không còn sự tin tưởng nhau, năm 2018 chị D về nước nhưng vợ chồng lại cãi nhau và chị D đã về nhà bố mẹ đẻ ở, bản thân anh muốn chị D ở Việt Nam lao động, chăm sóc con cái nhưng chị D không đồng ý và tiếp tục đi Đài Loan (Trung Quốc) lao động. Từ đó vợ chồng không liên lạc quan tâm gì tới nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 3 con chung là Phạm Minh H – Sinh ngày 25/2/2008, Phạm Tuấn Th – Sinh ngày 19/5/2009, Phạm Quỳnh A – Sinh ngày 07/5/2014. Anh V đề nghị nuôi cả ba con và không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại lời khai của ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị Th (là bố, mẹ đẻ chị D) thể hiện: Chị D hiện đang sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), gia đình không biết địa chỉ cụ thể của chị D ở nước ngoài. Nguyên nhân mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh V là do vợ chồng không hòa hợp, không tin tưởng nhau trong quan hệ hôn nhân dẫn đến vợ chồng căng thẳng và không còn quan tâm tới nhau nữa. Nay anh V có đơn ly hôn, gia đình đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Gia đình ông D, bà Th cũng thường xuyên liên lạc với chị D qua điện thoại và đã thông báo cho chị D biết việc anh V khởi kiện ly hôn. Chị D có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung, chị D nhất trí để anh V nuôi dưỡng cả ba con. Về tài sản chung không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị D đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Các con chung của anh V, chị D là Phạm Minh H, Phạm Tuấn Th, Phạm Quỳnh A đều có nguyện vọng được ở với anh Phạm Văn V trong trường hợp bố mẹ các cháu ly hôn.
Tòa án xác minh tại địa phương nơi anh V, chị D đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không có sự tin tưởng lẫn nhau mà thường nghi ngờ lẫn nhau. Anh V không muốn chị D đi lao động ở nước ngoài nhưng chị D vẫn đi nên vợ chồng càng mâu thuẫn. Địa phương cũng gặp gỡ, trao đổi mong vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Địa phương đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết theo nguyện vọng của các đương sự.
Tại phiên tòa: Nguyên đơn vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án đề nghị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử đã chấp hành đúng các quy định tại Điều 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn giấu địa chỉ, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 147 BLTTDS năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận cho anh Phạm Văn V được ly hôn chị Nguyễn Thị D; Về con chung: Giao các con chung là Phạm Mạnh H, sinh ngày 25/2/2008; Phạm Tuấn Th sinh ngày 19/5/2009 và Phạm Quỳnh A, sinh ngày 07/5/2014 cho anh Việt chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của anh V không yêu cầu chị D đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết; Về án phí: Anh Phạm Văn V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét đầy đủ ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Phạm Văn V sinh sống ở Việt Nam, bị đơn chị Nguyễn Thị D có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở thôn Tr, xã Nghĩa A, huyện N, tỉnh Hải Dương, hiện chị D đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh V và gia đình chị D không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị D ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, gia đình ông D, bà Th vẫn thường xuyên liên lạc với chị D nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho chị Duyền biết việc anh V đề nghị giải quyết ly hôn và các thủ tục tố tụng khác. Gia đình đã nhận các văn bản tố tụng và đã thông báo cho chị D biết. Tại phiên tòa, chị D vắng mặt lần thứ hai và đề nghị giải quyết vắng mặt, anh T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn V và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ngh, huyện N, tỉnh Hải Dương ngày 24/11/2006, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách không hòa hợp giữa hai vợ chồng trong quan hệ hôn nhân, quan hệ kinh tế và không có sự tin tưởng lẫn nhau. Năm 2018 anh V muốn chị D không đi nước ngoài nữa mà ở Việt Nam lao động, nuôi dạy con cái nhưng chị Duyền vẫn đi Đài Loan (Trung Quốc) nên vợ chồng càng mâu thuẫn căng thẳng, không ai quan tâm tới ai. Địa phương cũng gặp gỡ động viên để vợ chồng đoàn tụ nhưng cũng không có kết quả. Thông qua gia đình, chị D thông tin và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh V và chị D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh V ly hôn chị Duyền là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về quan hệ nuôi con: Anh Phạm Văn V và chị Nguyễn Thị D có ba con chung là Phạm Minh H – Sinh ngày 25/2/2008, Phạm Tuấn Th – Sinh ngày 19/5/2009, Phạm Quỳnh A – Sinh ngày 07/5/2014. Các con chung hiện đang ở với anh Việt và đều có nguyện vọng được ở với anh V. Chị D đang sinh sống, lao động tại Đài Loan (Trung Quốc) nên không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, hơn nữa chị D cũng nhất trí để anh V nuôi cả ba con chung. Do vậy, HĐXX chấp nhận giao các con chung cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của anh V không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng cho con. Nếu có căn cứ cho rằng anh V không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì chị D có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh V và chị D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật và được giải quyết trong vụ án khác.
[3]. Về án phí: Anh Phạm Văn V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Phạm Văn V ly hôn chị Nguyễn Thị D.
2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho anh Phạm Văn V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Phạm Minh H – Sinh ngày 25/2/2008, Phạm Tuấn Th – Sinh ngày 19/5/2009, Phạm Quỳnh A – Sinh ngày 07/5/2014 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của anh Việt không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng cho con.
Không ai được cản trở chị Nguyễn Thị D thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về án phí: Anh Phạm Văn V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0007307 ngày 09 tháng 7 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
4. Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Văn V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Chị Nguyễn Thị D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 178/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 178/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về