Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 167/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 167/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 102/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 190/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 141/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1990.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn A, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Hiện cư trú tại: Thôn M, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền về việc giao nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án của chị Ngoan: Ông Nguyễn Trọng Ư, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn M, xã Q, huyện Gi, tỉnh Hải Dương. Theo giấy ủy quyền lập ngày 06/2/2021. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quang C, sinh năm 1991.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn A, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang cư trú tại: Đài Loan. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Phạm Quang C, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện Gi, tỉnh Hải Dương Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ng trình bày: Chị và anh Phạm Quang C được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện Gi, tỉnh Hải Dương ngày 03/5/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau dẫn đến mỗi lần nói chuyện là lại xảy ra cãi nhau. Tháng 4/2015 anh C sang Đài Loan (Trung Quốc) lao động, tháng 5/2015 chị cũng sang Đài Loan (Trung Quốc) với chồng với hy vọng vợ chồng gần nhau để giảm mâu thuẫn, tập trung làm ăn kinh tế. Tuy nhiên thời gian vợ chồng sống ở nước ngoài mâu thuẫn còn trầm trọng hơn, vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh, cãi nhau nên mỗi người sống một nơi và ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Hiện tại chị đã về Việt Nam còn anh Cảnh vẫn đang ở Đài Loan (Trung Quốc), vợ chồng không liên lạc với nhau và chị cũng không có thông tin của anh Cảnh. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Quang C.

Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Phạm Quang V, sinh ngày 24/9/2011 hiện đang ở với ông C, bà L. Chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, tuy nhiên thông qua gia đình anh C cũng có nguyện vọng được nuôi con nên chị nhất trí giao con cho anh C chăm sóc, nuôi dưỡng và chị không phải cấp dưỡng tiền cho con. Trong thời gian anh C không có mặt tại Việt Nam, chị nhất trí giao con chung cho, bà L chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về tài sản, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Trọng Ư (là bố đẻ chị Ng) trình bày: Ông nhất trí nhận sự ủy quyền của chị Ng, sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã thông báo cho chị Ng biết, chị Ngoan vẫn giữ nguyên quan điểm như chị đã trình bày và giữ nguyên việc ủy quyền cho ông giao nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, ngoài ra ông có quan điểm đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Ông Phạm Quang C và bà Nguyễn Thị L (là bố, mẹ anh C) trình bày: Ông, bà không biết địa chỉ cụ thể của anh C ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh C vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông, bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh C biết. Thông qua gia đình, anh C trình bày quan điểm và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn, khi ly hôn anh đề nghị được nuôi dưỡng con chung là Phạm Quang V, sinh ngày 24/9/2011, anh tự nguyện không yêu cầu chị Ng phải cấp dưỡng cho con và đề nghị được giải quyết vắng mặt. Ông C, bà L có quan điểm tôn trọng quyết định của chị Ng, anh C và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ông C và bà L còn yêu cầu chị Ng phải trả cho ông bà khoản tiền mà ông, bà vay cho chị Ng đi nước ngoài là 50.000.000đ. Sau đó hai bên đã tự giải quyết nên ông bà không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết trong vụ án này.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị Ng, anh C đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn vợ chồng chị Ng, anh Cảnh sinh sống tại địa phương, sau đó cùng đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc). Trong thời gian ở địa phương, vợ chồng chị Ngoan, anh Cảnh mâu thuẫn do tính cách không hòa hợp, không có sự tin tưởng lẫn nhau. Nay chị Ng có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của các đương sự và theo quy định của pháp luật.

Con chung của chị Ngoan, anh C là Phạm Quang V trình bày: Trong trường hợp bố mẹ ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với bố là Phạm Quang C và ông bà nội.

Tại phiên tòa: Chị Ng vắng mặt. Tại các đơn và lời khai của chị N trong quá trình giải quyết vụ án, chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đồng ý để anh C nuôi con chung, trong thời gian anh C ở nước ngoài, chị đồng ý để ông , bà L nuôi con Phạm Quang V.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) và nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Ng ly hôn anh Phạm Quang C. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho anh Phạm Quang C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Phạm Quang V, sinh ngày 24/9/2011 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của anh Phạm Quang C không yêu cầu chị Nguyễn Thị Ngoan phải cấp dưỡng cho con. Tạm giao cháu Phạm Quang V cho ông Phạm Quang C và bà Nguyễn Thị L chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh Cảnh không ở Việt Nam. Không ai được cản trở chị Nguyễn Thị Ng thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ng phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm Hôn nhân gia đình đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Khi gửi đơn khởi kiện, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ng sinh sống ở Đài Loan (Trung Quốc), tháng 6/2021 chị Ngoan về Việt Nam sinh sống. Bị đơn anh Phạm Quang C có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở Thôn A, xã Đ, huyện Gi, tỉnh Hải Dương, hiện anh C đang sinh sống tại Đài Loan (Trung Quốc), không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Ngoan không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh C ở nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu gia đình anh C cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng đã tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh C và gia đình đã thông báo cho anh C biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn của vợ chồng anh. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị Ng, anh C và các đương sự khác vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ng và anh Phạm Quang C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương ngày 03/5/2011 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự tin tưởng nên thường xuyên xảy ra cãi nhau. Năm 2015, vợ chồng cùng sang Đài Loan (Trung Quốc) làm ăn nhưng lại tiếp tục đánh, cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng hơn và đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay không ai quan tâm đến ai. Hiện tại chị Ngoan đã về Việt Nam nhưng anh và chị không liên lạc với nhau. Thông qua gia đình anh Cảnh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ng và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình, chính quyền địa phương. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Ng ly hôn anh C là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Ng và anh C có một con chung là Phạm Quang V, sinh ngày 24/9/2011, hiện đang ở với ông , bà L. Xét thấy, chị Ng nhất trí để anh C nuôi dưỡng con chung và nhất trí tạm giao con cho ông C, bà L nuôi dưỡng trong thời gian anh C ở nước ngoài. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, HĐXX cần chấp nhận giao con chung Phạm Quang V cho anh C chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung. Chấp nhận sự tự nguyện của anh C không yêu cầu chị Ngoan phải cấp dưỡng cho con. Trong thời gian anh C ở nước ngoài cần tạm giao con chung Phạm Quang V cho ông C, bà L chăm sóc nuôi dưỡng. Nếu có căn cứ cho rằng anh C không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì chị Ng có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ng, anh C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Ng ly hôn anh Phạm Quang C.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho anh Phạm Quang C nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Phạm Quang V, sinh ngày 24/9/2011 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của anh Phạm Quang C không yêu cầu chị Nguyễn Thị Ng phải cấp dưỡng cho con.

Tạm giao con chung của anh Cảnh, chị Ng là Phạm Quang V cho ông Phạm Quang C và bà Nguyễn Thị L chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh Cảnh không ở Việt Nam.

Không ai được cản trở chị Nguyễn Thị Ng thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ng phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005977 ngày 10 tháng 5 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Ng, ông Phạm Quang C và bà Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Phạm Quang C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 167/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:167/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;