Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 158/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 158/2024/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 209/2024/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 473/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 375/2024/QĐST- HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà D. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông T. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Chỗ ở hiện nay: Ấp A1, xã B1, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/7/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà D trình bày: Vào năm 2005, bà D và ông T kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, theo giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân xã B2, huyện C1, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 16/8/2007. Quá trình chung sống hai người có 02 người con chung tên K sinh ngày 14/11/2012 và V sinh ngày 24/10/2007, hiện cháu K và cháu V đang sống chung với bà D. Hai người chung sống hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc kéo dài và đến nay vẫn không hàn gắn được, vợ chồng đã không còn sống chung hơn 06 tháng nay.

Nay nhận thấy vợ chồng sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà D yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Về hôn nhân: Bà D yêu cầu được ly hôn với ông T.

+ Về con chung: Bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 người con chung đến tuổi trưởng thành; không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà D đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm cũng như trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Mọi vấn đề có liên quan bà D vẫn giữ nguyên theo lời trình bày có trong hồ sơ và cam kết không khiếu nại gì về sau.

- Bị đơn ông T: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T không có mặt tham gia tố tụng theo các giấy triệu tập của Tòa án và cũng không có ý kiến trình bày hay yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà D vắng mặt nhưng trong văn bản đề nghị xét xử vắng mặt thì bà D vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện, về hôn nhân, bà D yêu cầu được ly hôn với ông T; về con chung, bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 người con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung, bà D không yêu cầu giải quyết; Tòa án nhân dân huyện Kế Sách thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Ông T là bị đơn, có địa chỉ cư trú tại ấp A, xã B và ấp A1, xã B1, huyện C; Tòa án nhân dân huyện Kế Sách thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bà D vắng mặt nhưng có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do và không thuộc trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, việc vắng mặt cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử; Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông T là những người có đủ điều kiện kết hôn, hai người đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B2, huyện C1, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/8/2007, nên quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông T là hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án, bà D trình bày sau khi kết hôn, hai người chung sống hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc kéo dài và đến nay vẫn không hàn gắn được, vợ chồng đã không còn sống chung hơn 06 tháng nay, do nhận thấy vợ chồng sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà D yêu cầu được ly hôn với ông T. Sau khi thụ lý vụ án, mặc dù ông T biết được việc bà D khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T nhưng trong những lần Tòa án mời hòa giải thì ông T đều vắng mặt, từ đó mà Tòa án đã không tiến hành hòa giải được; hiện nay giữa bà D và ông T cũng không tìm ra được cách thức để hàn gắn tình cảm và khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng có thể đoàn tụ với nhau. Như vậy, việc bà D và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn và hiện nay đã sống ly thân với nhau, mỗi người sống ở một nơi và không còn tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cũng như thực hiện các quyền, nghĩa vụ khác của vợ chồng, mặc dù đã được Tòa án hòa giải nhiều lần nhưng vẫn không hàn gắn được cho thấy quan hệ hôn nhân giữa hai người đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hiện nay, bà D vẫn kiên quyết yêu cầu được ly hôn với ông T. Vì vậy, việc bà D yêu cầu được ly hôn với ông T là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và giải quyết cho bà D được ly hôn với ông T.

[5] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà D và ông T có với nhau có 02 người con chung tên K sinh ngày 14/11/2012 và V sinh ngày 24/10/2007. Cháu K và cháu V đang sống cùng với bà D và do bà D trực tiếp nuôi dưỡng, các cháu cũng có nguyện vọng được sống chung với bà D trong trường hợp Tòa án giải quyết cho bà D và ông T ly hôn với nhau; bà D có đủ khả năng để trực tiếp nuôi dưỡng các cháu; việc tiếp tục giao các cháu cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của các cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các cháu của bà D và giải quyết giao các cháu cho bà D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông T thực hiện các quyền này. Ông T không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà D. Trường hợp ông T có các hành vi này thì bà D có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung của ông T. Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi con chung có thể được Tòa án quyết định thay đổi theo quy định của pháp luật.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà D không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Bà D trình bày không có và không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Bà D không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí sơ thẩm: Bà D phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

T uyê n xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà D được ly hôn với ông T. (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 92, quyển số 01 ngày 16/8/2007 do Ủy ban nhân dân xã B2, huyện C1, tỉnh Sóc Trăng cấp) 1.2. Về con chung: Giao 02 người con chung là cháu K sinh ngày 14/11/2012 và cháu V sinh ngày 24/10/2007 cho bà D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Ông T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông T thực hiện các quyền này. Ông T không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà D. Trường hợp ông T có các hành vi này thì bà D có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung của ông T theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi con chung có thể được Tòa án quyết định thay đổi theo quy định của pháp luật.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà D không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

1.4. Về tài sản chung, nợ chung: Bà D trình bày không có và không yêu cầu giải quyết, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

1.5. Về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Bà D không yêu cầu giải quyết, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà D phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm mà bà D đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006139, ngày 22 tháng 7 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà D đã thực hiện xong nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự không có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 158/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:158/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;