Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 302/2021/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1986.

Địa chỉ ĐKHKTT: Xóm Th, thôn Ng, xã H, huyện T1, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Số X đường Thừa Đức, thành phố Tân Trúc, Đài Loan (Trung Quốc).

- Người được chị Đ ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Bà Ngô Thị M, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn Ph, xã C, huyện V, thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Xóm Th, thôn Ng, xã H, huyện T1, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đ trình bày: Chị và anh Nguyễn Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện T1, tỉnh Hải Dương vào ngày 26/9/2009. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không thể hòa hợp và không có biện pháp để hàn gắn, tháo gỡ. Từ năm 2013, khi chị đi lao động tại Đài Loan thì mâu thuẫn vợ chồng lại càng trầm trọng hơn, vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Xuân T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thị Vân K, sinh ngày 02/9/2010, hiện con đang ở với anh T. Do điều kiện chị đang làm ăn tại Đài Loan, hiện tại chị vẫn chưa về nước nên chị đề nghị giao con chung Nguyễn Thị Vân K cho anh Nguyễn Xuân T tiếp tục nuôi dưỡng và chị tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.500.000đ/1 tháng kể từ khi giải quyết xong vụ án cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện chị đang lao động tại Đài Loan, chị ủy quyền cho bà Ngô Thị M thay mặt chị giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án án, đồng thời đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

- Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bị đơn anh Nguyễn Xuân T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Đ có quan hệ hôn nhân như chị Đ trình bày là đúng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì chị Đ đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, thời gian này vợ chồng vẫn thỉnh thoảng liên lạc với nhau, đến năm 2016 chị Đ về phép, sau đó lại tiếp tục sang Đài Lan lao động. Tuy nhiên kể từ khi chị Đ đi lao động lần thứ hai đến nay vợ chồng không liên lạc và không quan tâm đến nhau nữa. Do sống xa cách quá lâu nên tình cảm vợ chồng nguội lạnh và không còn. Nay, chị Đ đề nghị xin ly hôn, anh cũng xác định vợ chồng không thể hàn gắn được nên nhất trí ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung Nguyễn Thị Vân K, sinh ngày 02/9/2010, hiện con đang ở với anh. Khi ly hôn anh đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và đồng ý với việc chị Đ tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con là 1.500.000đ/1 tháng kể từ khi giải quyết xong vụ án cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định vợ chồng không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người được chị Đ ủy quyền về việc giao nhận văn bản tố tụng của Tòa án, bà Ngô Thị M trình bày: Bà nhất trí nhận ủy quyền của chị Nguyễn Thị Đ, sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, bà đã thông báo cho chị Đ biết, chị Đ vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày. Bà M đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Con chung của chị Đ, anh T là Nguyễn Thị Vân K có nguyện vọng được ở với anh T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Đ ly hôn anh Nguyễn Xuân T. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Vân K cho anh T nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.500.000đ/1tháng kể từ tháng 02/2022 cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Chị Đ phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm và án phí dân sư sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đ có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở Xóm Th, thôn Ng, xã H, huyện T1, tỉnh Hải Dương, hiện chị đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Mặc dù, chị Đ không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng chị đã gửi các tài liệu gồm: Đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, bản tự khai, đơn xin giải quyết vắng mặt, giấy ủy quyền, các tài liệu này đã có chứng thực của Văn phòng kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc. Quá trình giải quyết vụ án, chị Đ, anh T đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Đ và anh Nguyễn Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện T1, tỉnh Hải Dương ngày 26/9/2009 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì chị Đ đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, thời gian đầu vợ chồng vẫn liên lạc với nhau nhưng kể từ năm 2016 khi chị Đ đi lao động lần thứ hai thì vợ chồng không liên lạc và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị Đ và anh T đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên chị Đ có đơn xin ly hôn, anh T cũng nhất trí. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Đ và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Đ được ly hôn anh T.

[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Đ và anh Nguyễn Xuân T có một con chung là Nguyễn Thị Vân K, sinh ngày 02/9/2010, hiện con đang ở với anh T. Do chị Đ đang làm ăn xa, chị không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc con chung nên chị đề nghị giao con chung cho anh T nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.500.000đ/1 tháng cho đến khi con thành niên. Anh T cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và nhất trí mức cấp dưỡng 1.500.000đ/1 tháng của chị Đ, cháu Khánh cũng có nguyện vọng được ở với bố. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự giao con chung Nguyễn Thị Vân K cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Đ tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.500.000đ/1 tháng cho đến khi con thành niên.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đ, anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đ phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí dân sự về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Đ.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Đ ly hôn anh Nguyễn Xuân T.

2. Về quan hệ con : Xử giao cho anh Nguyễn Xuân T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Thị Vân K, sinh ngày 02/9/2010 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Đ cấp dưỡng tiền nuôi con là 1.500.000đ/1tháng kể từ tháng 02/2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Chị Nguyễn Thị Đ được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Kể từ khi anh T có đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con mà chị Đ không thi hành khoản tiền trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của bộ luật dân sự.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị Đ đã nộp, theo biên lai thu số AA/2020/0004655 ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị Đ đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Xuân T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;