Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 139/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 139/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 142/2021/TLST-HNGĐ ngày 25/6/2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 141/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị U, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thành phố U, tỉnh Quảng Ninh.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn A, sinh năm 1989.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Thôn G, xã Y, huyện L, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan (Trung Quốc).

3. Người làm chứng: Đỗ Văn L, sinh năm 1965, địa chỉ: Thôn G, xã Y, huyện L, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự và người làm chứng đều vắng mặt. (Chị U có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Vũ Thị U trình bày: Chị và và anh Đỗ Văn A được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 06 tháng 10 năm 2010 tại UBND xã G, huyện L, tỉnh Hải Dương. (Nay là xã Y, huyện L, tỉnh Hải Dương). Sau khi chung sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi nhau. Sau đó, do không thể tiếp tục chung sống nên chị U đã bỏ về nhà ngoại và đến năm 2014 thì chị U đi lao động tại Nhật Bản. Năm 2018, anh A đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Vợ chồng không còn liên lạc với nhau, không ai còn quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau và ly thân từ năm 2014 đến nay. Chị U xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn A.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị U, anh A có 01 con chung là cháu Đỗ Minh C sinh ngày 09/01/2011 đang ở cùng với chị U và ông bà ngoại tại thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Chị U đề nghị Tòa án giao cho chị nuôi con chung và không yêu cầu anh A cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị U không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Đỗ Văn L là bố đẻ của anh Đỗ Văn A. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 25/6/2021 và 14/7/2021, ông L trình bày: Anh A và chị U được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 06 tháng 10 năm 2010 tại UBND xã G, huyện L, tỉnh Hải Dương (Nay là xã Y, huyện L, tỉnh Hải Dương). Hiện nay, anh A đang lao động tại Đài Loan. Anh A đã được ông thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án gửi. Sau khi được ông thông báo, anh A thông tin lại và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh A nhất trí đồng ý ly hôn chị U. Do anh A không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Đài Loan và bản thân ông cũng không nắm được nên ông không thể cung cấp cho Tòa án. Về con chung, anh A nhất trí giao cháu C cho chị U tiếp tục chăm sóc để đảm bảo cuộc sống ổn định của cháu.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 15429/QLXNC-P5 ngày 12/7/2021 thể hiện: Anh Đỗ Văn A, sinh ngày 29/10/1989 tại Hải Dương, CMND số: 030089001315, hộ khẩu thường trú tại: G, huyện L, tỉnh Hải Dương; đã sử dụng hộ chiếu số C5169199 do Cục quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 11/05/2018 để xuất nhập cảnh lần gần nhất ngày 24/6/2018 qua cửa khẩu Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt (Chị U có đơn xin xét xử vắng mặt).

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị U và anh A đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị U được ly hôn anh A; về con chung, giao cháu Đỗ Minh C sinh ngày 09/01/2011 cho chị U trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự thỏa thuận về cấp dưỡng tiền nuôi con. Về án phí, chị U phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thị U có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đỗ Văn A, là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Đài Loan. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa, chị U vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh A vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị U và anh A được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 06 tháng 10 năm 2010 tại UBND xã G, huyện L, tỉnh Hải Dương (Nay là xã Y, huyện L, tỉnh Hải Dương). Sau khi chung sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Sau đó, do không thể tiếp tục chung sống nên chị U đã bỏ về nhà ngoại và đến năm 2014 thì chị U đi lao động tại Nhật Bản. Năm 2018, anh A đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Vợ chồng không còn liên lạc với nhau, không ai còn quan tâm đến cuộc sống của nhau và ly thân từ năm 2014 đến nay. Chị U xác định tình cảm vợ chồng không còn. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị U, anh A cũng được gia đình anh A xác nhận. HĐXX xét thấy, hôn nhân của chị U và anh A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mỗi người ở một nước khác nhau, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị U ly hôn với anh A là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị U và anh A có 01 con chung là cháu Đỗ Minh C sinh ngày 09/01/2011 đang ở cùng với chị U và ông bà ngoại tại thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Chị U đề nghị Tòa án cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu C và không yêu cầu anh A cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Bản thân chị U có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Trong khi anh A đang đi lao động ở nước ngoài. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho chị U nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này, anh A về Việt Nam sinh sống có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị U tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu anh A cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này chị U có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị U và anh A không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị U phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị U.

Xử cho chị Vũ Thị U ly hôn anh Đỗ Văn A.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Vũ Thị U trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Đỗ Minh C sinh ngày 09/01/2011 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị U tự nguyện không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung. Chị U có quyền khởi kiện yêu cầu anh A cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Anh Đỗ Văn A có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị U phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2018/0006382 ngày 25/6/2021. Chị U đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị U có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 139/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:139/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;