Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 189/2021/TLST- HNGĐ ngày 01/11/2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 14/4/2022, quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐ-HPT ngày 04/5/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 2000, địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt

- Bị đơn: Anh Lê Tấn H, sinh năm: 1999; trú tại: Thôn T, xã M, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại n kh i kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên n chị Nguyễn Thị Thu H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Lê Tấn H tự nguyện tìm hiểu đến với nhau thành vợ chồng, có tổ chức lễ cướivà đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện N vào năm 2019. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh H ghen tuông vô cớ, thường xuyên có hành vi đe dọa, bôi nhọ, xúc phạm danh dự nhân phẩm của chị H cũng như gia đình chị H. Từ năm 2020 đến nay vợ chồng phần ai nấy sống, không ai quan tâm đến nhau. Do tình cảm vợ chồng đã hết nên chị H làm đơn yêu cầu ly hôn.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H và anh Lê Tấn H có một con chung tên Lê Nguyễn Ngọc G, sinh ngày: 24/02/2019. Nếu ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Tấn H đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tài liệu, chứng cứ và hoà giải, cũng không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu của chị H. Anh H cũng đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên toà nhưng vắng mặt.

Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật. Riêng đối với bị đơn anh Lê Tấn H không tham gia các lần hòa giải, không có mặt tại phiên tòa mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ là vi phạm pháp luật tố tụng dân sự; Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Lê Tấn H. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao con chung cho chị H nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập giải quyết; về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam tham gia tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị Thu H có đơn yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn với anh Lê Tấn H. Theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại kết quả xác minh tại Công an xã M thì anh H có đăng ký thường trú tại thôn T, xã M, huyện N, tỉnh Quảng Nam, đang có mặt tại địa phương. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xác định đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh H là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Lê Tấn H có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện N, tỉnh Quảng Nam vào ngày 09 tháng 7 năm 2019. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị H khai là do anh H ghen tuông vô cớ, có hành vi bạo lực gia đình, xúc phạm danh dự chị H và gia đình chị. Anh H đã được tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh không có ý kiến gì về yêu cầu của chị H, cũng không đến Tòa để tham gia hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Như vậy, anh H không có thiện chí hòa giải mâu thuẫn vợ chồng để có cơ hội đoàn tụ. Tại phiên tòa chị H cương quyết yêu cầu ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Lê Tấn H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung và cấp dưỡng nuôi dưỡng con chung:

[3.1] Về con chung: Chị H và anh H có 01 con chung tên Lê Nguyễn Ngọc G, sinh ngày 24/02/2019, chị H yêu cầu giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: việc nuôi con phải phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng nuôi dưỡng cũng như đảm bảo sự phát triển ổn định về thể chất và tinh thần cho đứa trẻ. Hiện nay cháu Giang còn nhỏ, đang ở với chị H, chị H có công việc và thu nhập ổn định. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu G và căn cứ theo quy định của pháp luật nên xét giao con chung Lê Nguyễn Ngọc G, sinh ngày 24/02/2019 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét

[5] Về án phí hôn nhân – đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với bị đơn anh Lê Tấn H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Lê Tấn H.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao con chung Lê Nguyễn Ngọc G, sinh ngày 24/02/2019 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi trưởng thành. Anh Lê Tấn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Lê Tấn H được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở anh H thực hiện quyền này. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn ồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn ồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010815 ngày 01/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyên khang cao bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;