Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 127/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 127/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 về: "Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Phương Th, sinh năm: 1995, địa chỉ: đội 15, thôn T, xã T, huyện D, tỉnh Quảng Nam.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc L, sinh năm: 1989, địa chỉ: thôn 03, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Các đương sự đều có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ly hôn, các lời khai có tại hồ sơ vụ án, tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Phương Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Quốc L tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào năm 2015, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Cuộc sống chung giữa chị và anh L thời gian gần đây thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chị và anh L bất đồng quan điểm sống, anh L thường xuyên đi làm ăn xa, thiếu trách nhiệm với gia đình, để chị một mình nuôi hai con còn nhỏ. Hiện nay, tình trạng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, không có khả năng hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Chị xét thấy sống chung với anh L chị không có hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

- Về nuôi con: Chị và anh L có 2 người con chung là Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 04/01/2016, Nguyễn Kiều Khả Ng, sinh ngày 27/8/2020. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng nhận nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

- Về chia tài sản, nợ chung khi ly hôn: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, các lời khai tiếp theo, tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Quốc L trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị Th về thời gian anh, chị kết hôn, hôn nhân của anh và chị Th là tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Anh thừa nhận cuộc sống vợ chồng thời gian gần đây có xảy ra mâu thuẫn cũng do một phần lỗi xuất phát từ phía bản thân anh, anh hứa sẽ cố gắng sửa chữa để vợ chồng chung sống và nuôi hai con chung vì hiện nay con chung còn quá nhỏ, anh không thống nhất ly hôn theo yêu cầu của chị Th.

Về quan hệ con chung: Anh và chị Th có hai con chung như chị Th trình bày là đúng với thực tế, hiện nay hai con chung đang sống với chị Th tại nhà mẹ ruột chị Th, vì anh thường xuyên đi làm ăn xa, ít có thời gian ở nhà. Nếu chị Th kiên quyết ly hôn thì anh sẽ nhận nuôi hai con chung, không có yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản khi ly hôn: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Th cương quyết ly hôn, xét thấy mâu thuẫn của chị Th và anh L đã đến mức trầm trọng, không có khả năng hàn gắn quan hệ tình cảm. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Th được ly hôn với anh L.

Về con chung: Xét thấy, cháu Nguyễn Kiều Khả Ng, sinh ngày 27/8/2020 hiện nay dưới 36 tháng tuổi nên giao cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 04/01/2016 chưa được 7 tuổi, từ nhỏ đến nay cháu Th được chị Th nuôi dưỡng, anh L thường xuyên đi lăm ăn xa nên không có điều kiện chăm sóc. Đề nghị Hội đồng xét xử giao hai người con chung chưa thành niên cho chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng, chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập giải quyết.

Về tài sản, nợ chung: Các đương sự không có đề nghị giải quyết nên không xem xét trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Phương Th và anh Nguyễn Quốc L xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chị Th làm đơn ly hôn là tính tình anh, chị sống không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, cuộc sống hôn nhân không mang lại hạnh phúc cho chị. Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Phương Th giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh L.

Qua xác minh tình trạng mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân giữa chị Phạm Thị Phương Th và anh Nguyễn Quốc L tại Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ xã T thể hiện: Mâu thuẫn giữa vợ chồng anh L, chị Th xảy ra như thế nào và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn thì Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ xã T không được rõ, Hội liên hiệp phụ nữ xã T chưa nhận được thông tin hay báo cáo gì về mẫu thuẫn từ phía chị Th hay anh L, xét thấy mâu thuẫn giữa anh L và chị Th đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Th được ly hôn với anh L.

[2] Về quan hệ con chung: Hai con chung của chị Th và anh L đều còn nhỏ, ở độ tuổi này các con cần sự quan tâm, chăm sóc trực tiếp của người mẹ, hơn nữa bản thân chị Th hiện nay có thu nhập ổn định, đảm bảo được việc nuôi con chung, từ khi sinh ra đến nay, cháu Th và cháu Ng được chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nhiều hơn anh L, hiện nay cháu Th đang theo học tại xã T, huyện D nới chị Th sinh sống và làm việc. Bản thân anh L là đàn ông, anh thường xuyên đi làm ăn xa nên điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung không thuận lợi bằng chị Th. Xét thấy, tại thời điểm giải quyết ly hôn điều kiện nuôi con của chị Th thuận lợi, đảm bảo hơn anh L. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu yêu cầu giải quyết về con chung của nguyên đơn chị Phạm Thị Phương Th, giao cho chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai người con chung đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Th không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[4] Về chia tài sản khi ly hôn: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị Phương Th phải chịu tiền án phí yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước tại phiên tòa là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên cần phải chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị Phạm Thị Phương Th, xử cho chị Phạm Thị Phương Th được ly hôn với anh Nguyễn Quốc L.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Phương Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai người con chung chưa thành niên là Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 04/01/2016, Nguyễn Kiều Khả Ng, sinh ngày 27/8/ 2020 đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Quốc L không cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trong trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Khi cần thiết các bên có quyền làm đơn xin thay đổi việc nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Phương Th phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam theo biên lai thu số 00008751 lập ngày 17 tháng 6 năm 2022, chị Th đã nộp đủ tiền án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/8/2022) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 127/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:127/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;