Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 125/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 125/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 118/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022, về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1996.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu dân cư T, phường A, thành phố L, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Phạm Duy H, sinh năm 1984.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn T, xã L, thành phố L, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Hàn Quốc.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Duy T, sinh năm 1962. Địa chỉ: Thôn Tân Tr, xã L, thành phố L, tỉnh Hải Dương.

(Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh H và ông T có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Phạm Duy H được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thị xã L(nay là thành phố L), tỉnh Hải Dương vào ngày 09/11/2016. Trước khi kết hôn anh, chị có thời gian quen biết, tìm hiểu nhau do cùng đi làm ăn tại Hàn Quốc, sau đó về nước làm thủ tục đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn được khoảng 1 tháng thì anh H tiếp tục sang Hàn Quốc làm ăn, còn chị ở lại gia đình nhà chồng. Thời gian đầu anh H có liên lạc về nhà nhưng do bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã, mâu thuẫn, chị đã chuyển về nhà đẻ ở từ tháng 12/2021, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị đã liên lạc và thống nhất với anh H về việc ly hôn, tuy nhiên anh H không gửi thủ tục xin ly hôn về nước được. Nay chị xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Duy H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Bảo B, sinh ngày 14/01/2017, hiện con đang ở với ông bà nội. Ly hôn chị đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi con thành niên, tuy nhiên hiện tại con đang ở với ông bà nội ổn định, anh H cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung nên chị nhất trí để anh H nuôi con. Anh chị tự thống nhất thỏa thuận về việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong thời gian anh H không có mặt tại Việt Nam chị nhất trí để bố mẹ anh H tiếp tục nuôi dưỡng con Phạm Bảo B.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị L không cung cấp được địa chỉ của anh H nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình anh H. Ông Phạm Duy T - bố đẻ anh H trình bày: Ông không biết địa chỉ cụ thể của anh H ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh H vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh H biết. Thông qua gia đình anh H có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị L có đơn xin ly hôn, anh nhất trí. Anh xác định vợ chồng có một con chung như chị L trình bày là đúng. Anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung cho đến khi con thành niên và tự nguyện không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian không có mặt tại Việt Nam, anh ủy quyền cho ông Phạm Duy T chăm sóc con Phạm Bảo B. Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định vợ chồng không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh H đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Nguyễn Thị L ly hôn anh Phạm Duy H. Về con chung: Giao con chung Phạm Bảo B, sinh ngày 14/01/2017 cho anh H nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Tạm giao con chung Phạm Bảo B cho ông T chăm sóc cho đến khi anh H về nước. Chị L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L sinh sống tại Việt Nam, bị đơn anh Phạm Duy H có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn Tân Tr, xã L, thành phố L, tỉnh Hải Dương, hiện anh H đang lao động tại Hàn Quốc. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị L không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh H tại Hàn Quốc. Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh H cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho ông Tân - bố đẻ anh H, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị L có quan điểm đề nghị được xét xử vắng mặt, thông qua gia đình anh H và ông T cũng có quan điểm xin được vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Duy H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thị xã L(nay là thành phố L), tỉnh Hải Dương vào ngày 09/11/2016, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống. Năm 2016, anh H đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H. Thông qua gia đình anh H cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa chị L và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một chung là Phạm Bảo B, sinh ngày 14/01/2017, hiện con đang ở với ông Phạm Duy T là bố đẻ của anh H. Chị L, anh H thống nhất giao cho anh H nuôi dưỡng con chung Phạm Bảo B cho đến khi con thành niên. Anh H tự nguyện không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh H có quan điểm ủy quyền cho ông Phạm Duy T chăm sóc con chung Phạm Bảo B cho đến khi anh về nước. Hội đồng xét xử thấy, thỏa thuận của anh chị phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật, do vậy cần chấp nhận. Tạm giao con Phạm Bảo B cho ông T nuôi dưỡng trong thời gian anh H không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L ly hôn anh Phạm Duy H.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho anh Phạm Duy H được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Phạm Bảo B, sinh ngày 14/01/2017 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm giao con chung Phạm Bảo B cho ông Phạm Duy T nuôi dưỡng trong thời gian anh H không có mặt tại Việt Nam.

Chị Nguyễn Thị L được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị L đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000088 ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị L đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị L và ông Phạm Duy T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Phạm Duy H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 125/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:125/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;