Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 259/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 243/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đắc T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Xóm 6, xã A, huyện H, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Chị Dương Thị L, sinh năm 1992.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Đội 2, thôn Q, xã P, huyện G, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Nhật Bản.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn anh Nguyễn Đắc T trình bày: Anh và chị Dương Thị L được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Hải Dương vào ngày 17/3/2010. Vợ chồng chung với nhau đến năm 2016 thì anh chị cùng đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, đến năm 2019 anh, chị cùng về nước. Sau đó chị L tiếp tục đi làm ăn lần thứ hai, anh không đồng ý nhưng chị L vẫn cương quyết đi. Từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do quan điểm sống bất đồng, vợ chồng không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Dương Thị L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị Lan C, sinh ngày 01/4/2011, hiện con đang ở với anh. Khi ly hôn anh đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con tròn 18 tuổi, anh tự nguyện không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án do anh T không cung cấp được địa chỉ của chị L tại Nhật Bản nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình chị L. Ông Dương Đình D là bố đẻ của chị L trình bày: Ông không biết địa chỉ cụ thể của chị L ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên chị L vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị L biết. Sau khi nhận được thông báo, thông qua gia đình chị L có quan điểm: Xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh T có đơn xin ly hôn, chị nhất trí. Chị xác định vợ chồng có một con chung như anh T trình bày là đúng. Do chị L đang làm ăn xa, chị không có điều kiện để trực tiếp nuôi con, chị nhất trí để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thị Lan C cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh, chị tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Cháu Nguyễn Thị Lan C có nguyện vọng được ở với bố.

Tại phiên tòa anh Nguyễn Đắc T và chị Dương Thị L vắng mặt và đều đề nghị xét xử vắng mặt, anh T có quan điểm giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa anh T và chị L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Nguyễn Đắc T ly hôn chị Dương Thị L. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Lan C cho anh T nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Nguyễn Đắc T sinh sống tại Việt Nam, bị đơn chị Dương Thị L có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại đội 2, thôn Q, xã P, huyện G, tỉnh Hải Dương, hiện chị L đang lao động tại Nhật Bản. Do vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T không cung cấp được địa chỉ của chị L tại Nhật Bản. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình chị L cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy áp dụng Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho ông Dương Đình D (bố đẻ chị L), đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh T có đơn đề nghị được xét xử vắng mặt, thông qua gia đình chị L cũng có quan điểm xin được vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Đắc T và chị Dương Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Hải Dương vào ngày 17/3/2010, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Chị L tiếp tục sang Nhật Bản làm ăn mặc dù anh T không đồng ý, từ đó vợ chồng không quan tâm đến nhau và cũng không liên lạc với nhau. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị L. Thông qua gia đình chị L cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa anh T và chị L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Thứ.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thị Lan C, sinh ngày 01/4/2011, hiện con đang ở với anh Thứ. Anh T có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy hiện cháu Linh đang ở với anh T và có nguyện vọng được ở với bố. Chị L hiện đang lao động tại Nhật Bản nên không có điều kiện trực tiếp chăm sóc con chung. Thông qua gia đình chị L cũng nhất trí để anh T nuôi con. Do vậy, cần chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự, giao cháu Chi cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp và đảm bảo quyền lợi của con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Anh Nguyễn Đắc T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Đắc T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Đắc T ly hôn chị Dương Thị L.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho anh Nguyễn Đắc T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Thị Lan C, sinh ngày 01/4/2011 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Chị Dương Thị L được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Đắc T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm anh T đã nộp, theo biên lai thu số AA/2020/0004593 ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Anh T đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Đắc T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Dương Thị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;