Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 về việc xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXX-ST ngày 24 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị N, sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Lường Văn L, sinh năm 1988 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn M hiện nay là thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Dương Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị N và anh Lường Văn L kết hôn với nhau vào ngày 22/02/2012, trước khi kết hôn có được tìm hiểu khoảng thời gian một năm, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống cùng bố mẹ chồng tại thôn M, xã T. Quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn vợ chồng nguyên nhân là do anh Lường Văn L không tu chí làm ăn, chơi bời, rượu chè, cơ bạc, chị và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh L không nghe. Sau đó chị đi làm công ty từ năm 2019, khi về chị về nhà bố mẹ đẻ không về nhà anh L nữa, vợ chồng đã sống ly từ đó thân đến nay. Hiện nay chị Dương Thị N xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Lường Văn L nữa, chị yêu cầu được ly hôn với anh Lường Văn L.

Về con chung: Có 01 người con chung tên là Lường Thị Thanh L sinh ngày 02/10/2012. Hiện nay cháu đang ở với anh Lường Văn L. Khi ly hôn, chị yêu cầu anh Lường Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành, chị Dương Thị N sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: Không có Quá trình giải quyết vụ án anh Lường Văn L vắng mặt, Tòa án đã tiến hành xác minh tại Công an xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn và tại gia đình anh Lường Văn L, bà Lường Thị Ng là mẹ đẻ của anh Lường Văn L cư trú tại thôn M nay là thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn đều khẳng định anh Lường Văn L vẫn cư trú tại thôn M nay là thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh Lường Văn L bà đều thông báo cho anh L và anh L có biết việc chị Dương Thị N hiện nay đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh và biết việc Tòa án đã gửi, tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập anh đến Tòa án tham gia tố tụng. Tuy nhiên, anh Lường Văn L không đến Tòa án tham gia tố tụng mà không có lý do.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, bị đơn anh Lường Văn L không đến Tòa án tham gia vào quá trình tố tụng, chị Dương Thị N có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ các bước về trình tự, thủ tục tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án theo quy định tại Điều 48, 51 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nguyên đơn chị Dương Thị N đã chấp hành, thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự như: Thực hiện quyền khởi kiện; nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình; không tham gia phiên tòa sơ thẩm, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Lường Văn L vắng mặt tại Tòa án mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, do vậy chưa chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 116 và Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Dương Thị N được ly hôn với anh Lường Văn L. Về con chung: Giao cháu Lường Thị Thanh L, sinh ngày 02/10/2012 cho anh Lường Văn L trực tiếp nuôi dưỡng, giao dục đến khi đủ 18 tuổi, ghi nhận sự tự nguyện của chị N về việc cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000 đồng/tháng. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết. Về án phí, đề nghị Hội đồng xét xử buộc các đương sự phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý vụ án và xác định quan hệ tranh chấp là đúng quy định của pháp luật và đúng thẩm quyền. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa lần hai các đương sự vắng mặt, nguyên đơn chị Dương Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Lường Văn L vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ. Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tình cảm: Quan hệ hôn nhân giữa chị Dương Thị N và anh Lường Văn L là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 22/02/2012 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Dương Thị N và anh Lường Văn L là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Lường Văn L không tu chí làm ăn, hay chơi bời rượu chè, cờ bạc. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay không còn quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống.

[4] Xác định tình trạng hôn nhân giữa chị Dương Thị N và anh Lường Văn L thấy rằng: Anh Lường Văn L không hợp tác với Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn và cũng không có ý kiến gì về việc chị Dương Thị N có đơn xin ly hôn với anh. Như vậy tình trạng hôn nhân giữa chị Dương Thị N và anh Lường Văn L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy, chị Dương Thị N yêu cầu ly hôn với anh Lường Văn L là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[5] Về con chung: Có 01 người con chung tên Lường Thị Thanh L, sinh ngày 02/10/2012 do hiện nay cháu đang ở với anh Lường Văn L và bố mẹ anh L. Khi ly hôn chị Dương Thị N yêu cầu anh Lường Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, chị Dương Thị N sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Còn anh Lường Văn L quá trình giải quyết vụ án không đến Tòa án tham gia tố tụng nên không có ý kiến về con chung. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị Dương Thị N về con chung là có căn cứ nên cần chấp nhận, giao con chung cháu Lường Thị Thanh L, sinh ngày 02/10/2012 cho anh Lường Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi), đó cũng là nguyện vọng của cháu Lường Thị Thanh L, ghi nhận việc chị Dương Thị N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/6/2022), chị Dương Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[6] Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Chị Dương Thị N trình bày là không có, quá trình giải quyết vụ án anh Lường Văn L vắng mặt, không có ý kiến gì. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị Dương Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), tổng cộng là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước. Xác nhận chị Dương Thị N đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/0002701 ngày 04/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Chị Dương Thị N phải nộp thêm số tiền án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

[9] Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 357 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Dương Thị N được ly hôn với anh Lường Văn L.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Lường Thị Thanh L, sinh ngày 02/10/2012 cho anh Lường Văn L được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), ghi nhận việc chị Dương Thị N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000 đồng/tháng (Một triệu đồng trên một tháng), thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/6/2022), chị Dương Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên có quyền có đơn yêu cầu thi hành án mà bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Dương Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), tổng cộng là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước. Xác nhận chị Dương Thị N đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/0002701 ngày 04/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Chị Dương Thị N phải nộp thêm số tiền án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Dương Thị N, bị đơn anh Lường Văn L vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;