Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B Đ, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 06/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2022 về việc “Ly hôn,tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 06/QĐ-ST–HNGĐ, ngày 03 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Hoa D, sinh năm: 1986; HKTT: thôn 03, xã Th H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước – Có mặt .

Bị đơn: anh Nguyễn C, sinh năm: 1983; HKTT: thôn 03, xã Th H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước.

Nơi ở hiện nay: thôn 05, xã Th H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn yêu cầu ly hôn đề ngày 31 tháng 12 năm 2021, biên bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Vũ Thị Hoa D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh Nguyễn C tự nguyện về chung sống với nhau từ năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước vào ngày 01/11/2004. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh Nhều mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, sống không hạnh phúc. Hiện tại chị D và anh C đã sống ly thân với nhau từ năm 2021 đến nay. Chị D xét thấy, chị với anh C đã không còn tình cảm với nhau nữ, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị D trình bày: Vợ chồng chị và anh C có 02 (hai) con chung chưa thành niên tên: Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 27/4/2009 và Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/02/2005. Hiện tại các con chung đang sống chung với chị D kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay. Chị D yêu cầu được tiếp tục trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung chưa thành niên cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung; Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị D không có yêu cầu gì khác.

Bị đơn anh Nguyễn C mặc dù đã được Tòa án tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Vì vậy, anh C không thể hiện được ý kiến của mình.

Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Vì anh C vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Vũ Thị Hoa D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn, yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn anh C quá trình giải quyết vắng mặt mặc dù đã được Tòa án tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng. Vì vậy, anh C không thể hiện được ý kiến của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B Đ, tỉnh Bình Phước phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 14, 15, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị Hoa D về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” đối với bị đơn anh Nguyễn C.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị Hoa D thuộc trường hợp “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Nguyễn C có địa chỉ tại thôn 05, xã Th H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 33, điểm a, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B Đ, tỉnh Bình Phước.

[2].Về tố tụng:

Bị đơn anh Nguyễn C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt, căn cứ điểm b Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3]. Về nội dung vụ án:

-Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Hoa D và anh Nguyễn C kết hôn hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước vào ngày 01/11/2004. Xét đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị D, anh C chung sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh Nhều mâu thuẫn, cãi vả trong cuộc sống hằng ngày, nguyên nhân là chị và anh C bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không nhường nhịn nhau. Hiện tại chị D, anh C không còn tình cảm với nhau nữa hai người đã sống ly thân với nhau từ năm 2021 đến nay.

Theo biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân ngày 12/5/2022, của Tòa án nhân dân huyện B Đ tại địa phương nơi chị D, anh C sống được biết: Giữa chị D, anh C có xảy ra Nhều mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày, chị D, anh C đã sống ly thân từ năm 2021 đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh C đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Vũ Thị Hoa D đối với anh Nguyễn C là hoàn toàn phù hợp với các qui định của pháp luật.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị D, anh C có với nhau 02 (hai) con chung chưa thành niên tên: Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 27/4/2009 và Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/02/2005. Hiện nay các con chung đang sống ổn định cùng với chị D kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay. Tại bản tự ghi lời khai của hai cháu Nh và chấu T đều có nguyện vọng được sống chung với mẹ là chị D cho đến khi đủ 18 tuổi.

- Xét về thu nhập: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh thu thập chứng cứ được biết hiện tại chị D đang làm công việc là công nhân cạo mủ cao su tại Nông trường 5, công ty cao su Lộc Nình, Bình Phước có mức thu nhập ổn định mỗi tháng từ 5.000.000 đ (năm triệu) đến 7.000.000 đ (bảy triệu) và hiện chị D cũng đã có chỗ ở ổn định tại nhà bà Hiền (mẹ ruột) của chị D kể từ khi vợ chồng kết hôn cho đến nay. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy: Với mức thu nhập nêu trên đảm bảo được các chi phí sinh hoạt hàng ngày để chị D tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc các con chung là hoàn toàn phù hợp. Để đảm bảo cho cuộc sống ổn định cũng như sự phát triển bình thường về mọi mặt của trẻ em vị thành niên căn cứ vào các Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình thiết nghĩ Hội đồng xét xử cần tiếp tục giao các con chung chưa thành niên là: Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 27/4/2009 và Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/02/2005 cho chị Vũ Thị Hoa D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi là hợp tình, hợp lý và hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị Hoa D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có; chị Vũ Thị Hoa D không yêu cầu Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Vũ Thị Hoa D phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” của nguyên đơn chị Vũ Thị Hoa D đối với bị đơn anh Nguyễn C.

1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Hoa D được ly hôn với anh Nguyễn C.

2.Về con chung: Giao 02 (hai) con chung chưa thành niên: Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 27/4/2009 và Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/02/2005 cho chị Vũ Thị Hoa D được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung sau khi ly hôn theo Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Vũ Thị Hoa D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện BĐ theo biên lai thu tiền số 0017561 ngày 27/01/2022.

4.Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;