Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN TRỤ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số 93/2021/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, Tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1965; (có mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Ông Trần Thành C, sinh năm 1958; Địa chỉ cư trú cuối cùng: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 11/10/20211, trong quá trình giải quyết vu an và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Y trình bày: Bà và ông Trần Thành C tự tìm hiểu nhau, tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Long An.vào ngày 13/7/2006 theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu, vợ chồng sống chung với nhau hạnh phúc. Đến năm 2010, bà và ông C có xảy ra mẫu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và ông C đã bỏ nhà đi biệt tích cho đến nay, không có tin tức gì. Vì vậy, bà Y đã làm đơn yêu cầu tuyên bố ông Trần Thành C mất tích để có căn cứ giải quyết ly hôn với ông C. Theo yêu cầu của bà Y, tại Quyết định giải quyết việc dân sự số 04/2021/QĐST-VDS ngày 21/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An đã tuyên bố ông Trần Thành C mất tích. Nay bà Y yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông C.

Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, bà và ông C có 01 con chung tên là Trần Phúc Th, sinh ngày 19/02/2006. Hiện tại, con chung đang do bà trực tiếp nuôi dưỡng. Ông C đã bỏ đi không có tin tức gì. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà xác định bà và ông C không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T và được Ủy ban xã cung cấp thông tin vào ngày 03/11/2021 như sau: Hoàn cảnh gia đình của bà Nguyễn Thị Y khó khăn thuộc diện hộ nghèo của xã. Ông Trần Thành C không có mặt tại địa phương. Hiện nay, cháu Trần Phúc Thịnh, sinh năm 2006 do bà Nguyễn Thị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa án đã niêm yết C khai các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật đối với ông Trần Thành C do không thể thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp cho ông C.

Vụ án đã được Tòa án tiến hành C khai chứng cứ theo quy định của pháp luật, không tiến hành hòa giải vụ án giữa các đương sự do nguyên đơn bà Y có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt. Nguyên đơn có mặt vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự và những người tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về nội dung: Căn cứ vào hồ sơ và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, Tòa án thu thập, lời trình của nguyên đơn tại phiên tòa thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xử cho bà Y được ly hôn với ông C. Về con chung: cho bà Y được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Phúc Th, sinh ngày 19/02/2006. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Y không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con. Về chia tài sản và nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Y khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần Thành C. Ông C có nơi cư trú cuối cùng tại xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tinh Long An theo quy đinh tai khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Y có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án, nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

[3] Bị đơn là ông Trần Thành C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Y:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, bà Y và ông C tư nguyên sống chung va đa đăng ky kết hôn theo giấy chưng nhận kết hôn số 28 đăng ky ngay 13/7/2006 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Long An.cấp, nên xác định hôn nhân giữa bà Y và ông C là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Sau khi kết hôn một thời gian, bà Y và ông C phát sinh mâu thuẫn vào năm 2010 thì ông C đã bỏ khỏi đi nơi cư trú, biệt tích không có tin tức gì. Theo yêu cầu của bà Y, tại Quyết định giải quyết việc dân sự số 04/2021/QĐST-VDS ngày 21/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An đã tuyên bố ông Trần Thành C mất tích. Xét thấy, việc bà Y yêu cầu được ly hôn với ông C là có cơ sở chấp nhận, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4.2] Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, bà Y và ông C có 01 con chung tên là Trần Phúc Thịnh, sinh ngày 19/02/2006. Từ khi ông C bỏ đi cho đến nay, cháu Thịnh do bà Y nuôi dưỡng. Xét yêu cầu xin nuôi con của bà Y, Hội đồng xét xử xét thấy từ năm 2014 cho đến nay cháu Thịnh do bà Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, có tình cảm thân thiết, gắn bó, cuộc sống được duy trì ổn định và cháu Thịnh cũng có nguyện vọng sống với bà Y nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung của vợ chồng cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Y không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

[4.3] Về chia tài sản và nợ chung: Do ông C đã bỏ đi biệt tích, bà Y không yêu cầu Tòa án giải quyết về chia tài sản và xác định giữa bà Y và ông C không có nợ ai, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Buộc bà Y phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoan 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoan 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 cua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Y về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với ông Trần Thành C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Y được ly hôn với ông Trần Thành C.

2. Về nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Y được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Trần Phúc Th, sinh ngày 19/02/2006. Ông Trần Thành C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi thấy cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về chia tài sản và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghin đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nha Nươc, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà Y đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tam ưng an phí, lệ phí Tòa án số 0007002 ngay 12/10/2021 cua Chi cuc Thi hanh an dân sư huyên Tân Trụ, tinh Long An. Bà Nguyễn Thị Y đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm C khai, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Trụ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;