Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH – TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15/3/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, Tòa án mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 144/2021/ TLST-HNGĐ ngày 07/10/2021 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXX-ST ngày 24/01/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐXX-ST ngày 18/02/2022giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1989 .

Nơi ĐKNKTT: Khu Tầm Vông, thị trấn C, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

Hôm nay, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt);

Bị đơn: Anh Trần Duy M, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Khu Tầm Vông, thị trấn C, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ Hôm nay, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 28/9/2021, bản tự khai chị Nguyễn Thị Thu H trình bày: Chị và anh Trần Duy M kết hôn ngày 13/10/2010 tại UBND thị trấn C huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với gia đình anh Minh tại tổ 4, khu Tầm Vông, thị trấn C, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Minh nghiện ma túy, không quan tâm đến gia đình, vợ con. Từ khoảng tháng 5/2021 cho đến nay vợ chồng chị đã sống ly thân và không còn quan tâm gì đến nhau. Chị đã về nhà mẻ đẻ tại khu 9, thị trấn C, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ ở cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn anh Minh.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là:

+ Trần Duy Khánh, sinh ngày 09/09/2013.

+ Trần Khánh Huyền, sinh ngày 24/03/2018.

Hiện nay các con đang ở cùng chị. Nếu ly hôn chị xin nuôi cả hai con và không yêu cầu anh Minh phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản chung, nợ chung và công sức: Không có.

Phía bị đơn là anh Trần Duy M: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh Trần Duy M thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, nhưng anh Trần Duy M đều không có mặt nên không có lời khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Chị Nguyễn Thị Thu H có yêu cầu xin ly hôn với anh Trần Duy M và đề nghị giải quyết về con chung nên đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại khu Tầm Vông, thị trấn C, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ nên căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Phù Ninh.

- Tại phiên tòa hôm nay: Chị Nguyễn Thị Thu H có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có quan điểm thể hiện tại Bản tự khai; Anh Trần Duy M đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt đối với chị Hằng và anh Minh

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trần Duy M kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND TT. C, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ phù hợp với Luật hôn nhân gia đình Việt Nam. Theo chị Hằng trình bày thì vợ chồng mâu thuẫn là do bắt đầu từ năm 2019 anh Minh nghiện ma túy nên không quan tâm đến vợ con và gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân và không còn quan hệ về mặt tình cảm kể từ tháng 5/2021 cho đến nay. Về phía anh Trần Duy M mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Minh để anh Minh thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nhưng anh Minh không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tại địa phương và biết rằng hiện nay anh Minh đang sống cùng mẹ đẻ là bà Lương Thị Tỉnh. Bà Tỉnh cung cấp: Trước thời điểm chị Hằng và anh Minh ly thân thì anh chị vẫn ở cùng bà. Thời gian gần đây bà và anh Minh có được biết chị Hằng làm đơn xin ly hôn anh Minh tại TAND huyện Phù Ninh và có nhận được các thông báo của Tòa án báo anh Minh đến làm việc nhưng do anh Minh đi làm công nhân tại khu công nghiệp Bình Phú thời gian từ 07 giờ đến 19 giờ hàng ngày nên không thể xin nghỉ để đến Tòa án làm việc. Tòa án đã tiến hành thực hiện được việc tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho bà Tỉnh nhận thay anh Minh nhưng bà Tỉnh từ chối nhận các văn bản tố tụng của Tòa án vì bà cho rằng bà không liên quan. Do không tống đạt được cho anh Minh các văn bản tố tụng nên Toµ ¸n ®· tiÕn hµnh niªm yÕt c¸c v¨n b¶n này theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay mặc dù chị Hằng vắng mặt nhưng đã có quan điểm thể hiện tại Bản tự khai là đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn đối với anh Minh do hiện nay tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, có thể khẳng định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Hằng và anh Minh đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần xử cho chị Hằng được ly hôn với anh Minh là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thu H x¸c nhận vî chång có hai con chung là Trần Duy Khánh, sinh ngày 09/09/2013 và Trần Khánh Huyền, sinh ngày 24/03/2018. Hiện nay cả hai cháu đang ở cùng chị. Khi ly hôn chị Hằng xin được nuôi cả hai cháuvà không yêu cầu anh Minh phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Xét thấy nguyện vọng xin được nuôi con của chị Hằng là chính đáng và phù hợp với quy định của pháp luật bởi hiện nay chị Hằng có việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi con. Mặt khác, anh Minh có được biết việc chị Hằng xin ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết về con chung nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay anh vẫn không có mặt. Như vậy anh đã mặc nhiên từ bỏ các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, để đảm quyền lợi của con chưa thành niên nên cần giao cháu Khánh và cháu Huyền cho chị Hằng trực tiếp nuôi dưỡng, anh Minh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hằng là phù hợp với quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức: Chị Nguyễn Thị Thu H xác nhận vợ chồng không có nªn Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết. Nếu sau này anh Minh đề nghị giải quyết về tài sản chung, nợ chung và công sức thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác nếu có căn cứ.

[3] Tại phiên tòa hôm nay đại diện VKS nhân dân huyện Phù Ninh có quan điểm: Vụ án thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay tuân thủ đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Đề nghị HĐXX xử cho chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trần Duy M được ly hôn.

- Về con chung: Đề nghị HĐXX giao cháu Trần Duy Khánh, sinh ngày 09/09/2013 và Trần Khánh Huyền, sinh ngày 24/03/2018 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trần Duy M không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hằng do chị Hằng không yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

[5] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý vả sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trần Duy M.

Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Trần Duy Khánh, sinh ngày 09/09/2013 và cháu Trần Khánh Huyền, sinh ngày 24/03/2018 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trần Duy M không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hằng.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2020/0001215 ngày 07/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Chị Hằng đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trần Duy M vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai để đề nghị xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;