TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 105/2021/TLST- HNGĐ, ngày 14 tháng 10 năm 2021, về: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 14 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị N, sinh năm 1993 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.
- Bị đơn: Anh Đỗ Hùng C, sinh năm 1993 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 12/10/2021 và quá trình giải quyết vụ án, chị Đỗ Thị N trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C kết hôn ngày 27/7/2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống chị N và anh C xảy ra nhiều mâu thuẫn là do anh C không lo làm ăn, chơi bời, dẫn đến kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cuộc sống hôn nhân rất căng thẳng nên chị N và anh C không còn chung sống từ tháng 7 năm 2020 đến nay. Hiện nay mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, không thể kéo dài, chị N giữ nguyên yêu cầu ly hôn anh C.
-Về con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C có 01 con chung là Đỗ Cường T, sinh ngày 20/01/2019. Chị N có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành.
Theo đơn khởi kiện, chị N yêu cầu anh C cấp dưỡng hàng tháng cho con, mỗi tháng 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án chị N rút toàn bộ yêu cầu về cấp dưỡng, chị N không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đỗ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Quá trình giải quyết vụ án anh Đỗ Hùng C trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đỗ Hùng C đồng ý ly hôn chị Đỗ Thị N.
- Về con chung: Anh Đỗ Hùng C đồng ý giao con Đỗ Cường T, sinh ngày 20/01/2019 cho chị Đỗ Thị N trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành.
- Về tài sản chung, nợ chung: Anh Đỗ Hùng C không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Người tham gia tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án; tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các trình tự thủ tục quy định; người tham gia tố tụng chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Đỗ Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và con chung. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Bị đơn anh Đỗ Hùng C có nơi cư trú tại thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Krông Nô theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh C.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C kết hôn ngày 27/7/2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn của anh chị trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, kết hôn đúng theo Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị N. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chị N và anh C xảy ra nhiều mâu thuẫn do không hợp nhau, không cùng quan điểm sống, vợ chồng anh chị đã không còn sống chung với nhau từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay. Anh C nghiện ma túy, đang phải đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở Cai nghiện ma túy số 01, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông. Quan hệ hôn nhân phải dựa trên tình cảm, tình yêu thương từ cả hai phía vợ, chồng; dựa trên sự bình đẳng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Chị N không còn tình cảm với anh C. Vì vậy, không đảm bảo được việc quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, chia sẽ với nhau những công việc gia đình và cùng nhau nuôi con chung trưởng thành. Hiện nay quan hệ hôn nhân không có khả năng hàn gắn, tình cảm yêu thương dành cho nhau không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Theo nội dung biên bản xác minh tại nơi chị N và anh C sinh sống thì chính quyền không nắm được vợ chồng chị N và anh C có mâu thuẫn hay không.
Như vậy, xét yêu cầu khởi kiện của chị N và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đối với nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị N là có cơ sở nên cần chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C có 01 con chung là Đỗ Cường T, sinh ngày 20/01/2019. Chị N có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến tuổi trưởng thành.
Anh C đồng ý giao con Đỗ Cường T cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Từ thời điểm vợ chồng không còn sống chung từ năm 2020 cho đến nay chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng con, anh C đang phải đi cai nghiện bắt buộc. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ áp dụng các điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình, giao con chung là Đỗ Cường T, sinh ngày 20/01/2019 cho chị N trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).
[4] Về yêu cầu cấp dưỡng: Quá trình giải quyết vụ án, chị N rút toàn bộ yêu cầu về cấp dưỡng số tiền 3.000.000 đồng, chị N không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, Do đó Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu về cấp dưỡng của chị N. Chị N có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
Chị N, anh C thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn theo các điều 81, 82, 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, không ai được cản trở.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Chị Đỗ Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô. Hoàn trả chị Đỗ Thị Ngọc 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 19; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị N.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị N được ly hôn anh Đỗ Hùng C.
2. Về con chung: Giao con chung là Đỗ Cường T, sinh ngày 20/01/2019 cho chị Đỗ Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).
Đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị Đỗ Thị N. Chị N có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn chị N, anh C có các quyền, nghĩa vụ theo các Điều 81, 82, 83, 84, 116 của Luật hôn nhân và gia đình như sau:
- Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định tại khoản 1 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
- Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.
- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
- Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.
- Quyền yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đỗ Hùng C không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Đỗ Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0003022 ngày 12/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô.
Hoàn trả chị Đỗ Thị N số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 03/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về