Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU 

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY01/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 01-6-2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2020/TLST-HNGĐ ngày  13-10-2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26-4-2021 và Quyết định  hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14-5-2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Duy K, sinh năm 1980;

Hộ khẩu thường trú: Khu dân cư số x, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng  Tàu (Vắng mặt có lý do).

2. Bị đơn: Chị Võ Thị T, sinh năm 1981;

Hộ khẩu thường trú: Khu dân cư số x, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng  Tàu (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

  - Theo đơn khởi kiện, bản tư khai ngày 12-10-2020, đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nguyên đơn anh Trần Duy K trình bày:

Về hôn nhân: Anh K và chị Võ Thị T quen biết, tìm hiểu nhau từ năm  1999 đến cuối năm 2001 tổ chức đám cưới tại huyện C theo phong tục tập quán tại địa phương, hôn nhân đều được sự đồng ý của hai gia đình nội ngoại, trên cơ sở tự nguyện không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn với tại UBND  huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 21-02-2001 (Giấy đăng ký số  03/2001, Quyển số 01/HT.78) và sống hòa thuận hạnh phúc, kết quả có một con chung. Trong quá trình sinh sống phát sinh mâu thuẫn bắt đầu từ năm 2010, nguyên nhân là về quan điểm, lối sống của hai vợ chồng quá khác biệt, không  thực sự hiểu và thông cảm cho nhau, anh K, chị T thường xuyên tranh cải to tiếng, được hai gia đình nội ngoại khuyên giải nhưng không có kết quả. Đến tháng 8-2011 anh K, chị T quyết định sống ly thân cho đến nay, trong thời gian ly thân anh K, chị T vẫn liên lạc với nhau để có cơ hội hàn gắn tình cảm, hàn gắn rạn nứt trong hôn nhân nhưng không được, anh K xác nhận hiện nay anh không còn tình cảm với chị T, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh K xin được ly hôn với chị Võ Thị T.

Về nuôi con chung: Vợ, chồng có 01 con chung là cháu Trần Võ Khánh Nhân, sinh ngày 15-11-2004; Anh K yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản, nợ chung: Anh K tự thỏa thuận với chị T, không yêu cầu  Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng  Tàu tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và  nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về hôn nhân, về nuôi con chung, về tài sản chung, công nợ chung; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

  Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đã được xem xét tại tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện C nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Duy K chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh K vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Chị Võ Thị T không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 72 Bộ Luật tố  tụng dân sự và đã được Tòa án nhân dân huyện C triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không lý do, không có bản tự khai nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Xét yêu cầu của nguyên đơn, khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn nên đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải  quyết của Tòa án nhân dân huyện C, quy định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân:

- Anh Trần Duy K có đăng ký kết hôn với chị Võ Thị T tại  UBND huyện  C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 21-02-2001 (Giấy đăng ký số  03/2001, Quyển số 01/HT.78), hôn nhân trên cơ sở tự nguyện nên hôn nhân của  anh K và chị T là hôn nhân hợp pháp.

- Thời gian chung sống, anh K, chị T phát sinh mâu thuẫn bắt đầu từ năm  2010, nguyên nhân là về quan điểm, lối sống của hai vợ chồng quá khác biệt, không thực sự hiểu và thông cảm cho nhau, anh K, chị T thường xuyên tranh cải  to tiếng, được hai gia đình nội ngoại khuyên giải như không có kết quả, vợ chồng không còn yêu thương nhau nên đến tháng 8-2011 anh K, chị T quyết định sống ly thân cho đến nay;

- Xét thấy mâu thuẫn giữa anh Trần Duy K và chị Võ Thị T đã đến mức  trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng các Điều 56 và Điều 57  Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Duy K đối với chị Võ Thị T.

[4] Về nuôi con chung:

- Vợ, chồng có 01 con chung là cháu Trần Võ Khánh Nhân, sinh ngày 15-  11-2004; Xét thấy anh K có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và theo nguyện vọng của cháu Nhân muốn sống cùng anh K. Giao cháu Trần Võ Khánh Nhân cho anh  K trực tiếp nuôi dưỡng đảm bảo sự phát triển toàn diện của con theo quy định tại  các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về yêu cầu cấp dưỡng; Tạm thời, anh K không yêu cầu chị T cấp dưỡng  nuôi con nên không xét đến.

[5] Về chia tài sản chung, nợ chung: Anh K, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh K tự nguyện nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Cho anh Trần Duy K được ly hôn với chị Võ Thị T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung cháu Trần Võ Khánh Nhân, sinh ngày 15-11-2004 cho anh Trần Duy K trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời, anh K không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh K, chị T điều có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà  không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia  đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi của con chung, cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được  quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Toà án  thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con hoặc yêu cầu việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh K, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí:

- Anh K phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0008444 ngày 12-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Anh Khánh đã nộp đủ tiền án phí.

- Chị T không phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Côn Đảo - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;