Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 67/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 67/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 223/2022/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 157/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14/7/2022 giữa:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm: 1990.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: khu phố 9, phường Đức T, huyện Đức L, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Ông Huỳnh Văn H1, sinh năm: 1988.

Nơi cư trú: Khu phố 6, phường Đức L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt bà H, vắng mặt ông H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2022, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Huỳnh Văn H1 tự tìm hiểu, quen biết nhau, đến năm 2010 thì đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đức L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận, cấp ngày 29/10/2010.

Sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng bà chung sống tại nhà cha mẹ chồng tại phường Đức L, thành phố P. Thời gian đầu vợ chồng chung sống H phúc yêu thương nhau. Nhưng những năm trở lại đây thì vợ chồng bất đồng quan điểm do ông H1 thường xuyên bạn bè, ăn nhậu, bỏ bê công việc, không lo làm ăn và không quan tâm đến vợ con. Trong nhiều năm qua bà H đã nhiều lần khuyên giải nhưng không được. Đến đầu tháng 6/2015 cho tới nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa, bà H bỏ về quê ở cho đến nay.

Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng đã hết nên đã làm đơn khởi kiện mong Tòa án giải quyết cho được ly hôn với ông Huỳnh Văn H1.

Về con chung: có 01 con chung tên Huỳnh Phúc Anh T (nữ), sinh ngày 31/3/2011. Nguyện vọng sau khi ly hôn, bà H yêu cầu giao con chung cho ông H1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng vì hiện nay cháu T đang ở với ông H1 và cháu đang ổn định cuộc sống.

Về mức cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Thanh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chúng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông Huỳnh Văn H1 luôn vắng mặt không có lý do chính đáng.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Đối với Thẩm phán từ khi thụ lý đến khi xét xử thực hiện đúng theo thủ tục. Hội đồng xét xử đúng như quyết định đưa vụ án ra xét xử, Hội đồng xét xử thể hiện sự vô tư khách quan khi xét xử, nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Bị đơn ông Huỳnh Văn H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông H1 không đến Tòa án lần nào. Căn cứ vào Điều 70, Điều 72, Điều 92, điểm b khoản 02 Điều 227, khoản 03 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt ông Hùng.

- Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ tại hồ sơ thể hiện mâu thuẫn giữa bà H và ông H1 đã trầm trọng. Do đó, căn cứ Điều 51, 53, 54, 56 Luật hôn nhân gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh H về việc xin ly hôn với ông Huỳnh Văn H1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thanh H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung với ông Huỳnh Văn H1, ông H1 có hộ khẩu thường trú và nơi cư trú là khu phố 6, phường Đức L thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh H, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Về quan hệ hôn nhân, ông Huỳnh Văn H1 và bà Nguyễn Thị Thanh H có đăng kí kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 135/2010, quyển số 01 tại UBND phường Đức L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận nên quan hệ hôn nhân của ông H1 và bà H là hợp pháp.

Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng thì phải biết thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng xây dựng gia đình H phúc đồng thời phải biết tôn trọng, giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Qua lời khai của bà Hạnh, vợ chồng ông bà đã không còn H phúc, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nên thường xuyên cãi nhau, đời sống vợ chồng nặng nề, ảnh hưởng đến con cái. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông H1 luôn vắng mặt không có lý do chính đáng. Điều này chứng tỏ mối quan hệ hôn nhân của ông bà đã thật sự rạn nứt, nếu tiếp tục chung sống cũng không có H phúc. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi và nhằm ổn định cuộc sống cho các bên, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H là phù hợp.

Bị đơn ông Huỳnh Văn H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông H1 luôn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ vào Điều 70, Điều 72, Điều 92, điểm b khoản 02 Điều 227, khoản 03 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xem như ông H1 đã tự khước từ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và tiến hành xét xử vắng mặt ông H1.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung tên Huỳnh Phúc Anh T (nữ), sinh ngày 31/3/2011. Nguyện vọng sau khi ly hôn, bà H yêu cầu giao con chung cho ông H1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng vì hiện nay cháu T đang ở với ông H1 và cháu đang ổn định cuộc sống. Vì vậy, để đảm bảo đời sống của cháu T được ổn định Hội đồng xét xử giao cháu Huỳnh Phúc Anh T (nữ), sinh ngày 31/3/2011cho ông Huỳnh Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng.

Về phương thức cấp dưỡng nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con: Do ông H1 không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với bà H nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Do ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Ông bà khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét ý kiến trình bày của đương sự, cũng như quan điểm đề nghị tại Tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận về việc xin ly hôn, giải quyết việc nuôi con chung của bà Nguyễn Thị Thanh H là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 04 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bà Nguyễn Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí về việc yêu cầu xin ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 01 Điều 28, khoản 01 Điều 35, Điều 147, điểm b khoản 02 Điều 227, khoản 03 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thanh H. Bà Nguyễn Thị Thanh H được ly hôn với ông Huỳnh Văn H1.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung tên Huỳnh Phúc Anh T (nữ), sinh ngày 31/3/2011. Giao cháu Huỳnh Phúc Anh T cho ông Huỳnh Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Ông bà khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ngày 23/3/2022 bà H đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí do Chi cục Thi hành án Dân sự Thành phố Phan Thiết thu biên lai số 0009502 nay được chuyển sang án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai có mặt các đương sự. Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày tính từ ngày tuyên án (29/7/2022) và của bị đơn tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 67/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;