Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 300/2019/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 300/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 11 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 1544/ 2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 283/2019/QĐXX-ST ngày 17/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 397/2019/QĐST-HNGĐ ngày 31/10/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Tuyết C, sinh năm 1985.

Địa chỉ thường trú: tổ 7, ấp 8, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ tạm trú: tổ 2, khu phố 5, thị trấn P , huyện P1, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1982.

Địa chỉ thường trú: 57, khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

 (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết C trình bày:

Chị và anh Nguyễn Hữu H chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 2009 tại UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 27/TN, quyển số 28/2009, ngày 05/3/2009. Vợ chồng sống hạnh phúc thời gian đầu. Đến cuối năm 2010 thì xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, bất đồng về cách nuôi dạy con cái, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên cãi vã về vấn đề kinh tế, anh H không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên chửi bới, xúc phạm chị. Vợ chồng anh chị đã nhiều lần cùng ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Do đời sống chung của vợ chồng không hạnh phúc dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và tiếp tục chung sống. Năm 2016, chị có làm đơn xin ly hôn anh H nhưng chị đã rút đơn do anh H bất hợp tác, không chịu lên Tòa án làm việc. Anh chị đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Chị xác định mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án cho chị ly hôn với anh H.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Hữu Thiên A, sinh ngày 07/01/2010. Chị yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Thiên A, không yêu cầu anh Nguyễn Hữu H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc nên chị Trần Thị Tuyết C đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu H đã được Tòa án xác minh địa chỉ cư trú tại Công an phường T, thành phố B ngày 15/10/2019, theo nội dung văn bản xác minh thì anh H có đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: 57, khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh H theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, anh H vẫn vắng mặt nên không có lời trình bày.

Ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc chấp hành pháp luật của bị đơn là không đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ được thông qua tại phiên tòa hôm nay có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C đối với anh H; về con chung: đề nghị giao cháu Nguyễn Hữu Thiên A, sinh ngày 07/01/2010 cho chị Trần Thị Tuyết C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời anh Nguyễn Hữu H không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: tự thỏa thuận nên không xem xét; về nợ chung: đương sự khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Chị Trần Thị Tuyết C khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Hữu H. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định chị C là nguyên đơn, anh H là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Hữu H có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. C ăn cứ vào khoản 01 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của chị C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về thủ tục tố tụng khác: Nguyên đơn, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa. Nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết C có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Hữu H vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị C, anh H theo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung tranh chấp:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Tuyết C và anh Nguyễn Hữu H chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 27/TN, quyển số 28/2009, ngày 05/3/2009. Đối C ếu quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định hôn nhân của chị C và anh H là hợp pháp.

Xét thấy, chị C xác định vợ chồng thường xuyên cãi vã xuất phát từ lý do về kinh tế, vợ chồng khác biệt trong quan điểm sống cũng như trong cách nuôi dạy con dẫn đến xung đột và không tôn trọng lẫn nhau. Vợ chồng anh chị đã nhiều lần cùng ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Năm 2016, chị có làm đơn xin ly hôn anh H nhưng đã rút đơn khởi kiện. Đến thời điểm chị C khởi kiện, vợ chồng anh chị đã ly thân được hơn 3 năm.

Đối với anh H, theo kết quả xác minh tại Công an phường T ngày 15/10/2019, xác định hiện nay anh H vẫn cư trú tại địa phương, Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh H vẫn vắng mặt tại các buổi làm việc, hòa giải và phiên tòa là không thực hiện đúng nghĩa vụ của bị đơn, từ đó cho thấy anh H có ý bỏ mặc việc Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân của hai người, không có ý định hòa giải, đoàn tụ.

Theo biên bản xác minh mâu thuẫn tại địa phương ngày 15/10/2019, ông Nguyễn Hữu H – khu phố phó khu phố 7, phường T - nơi chị C và anh H sinh sống sau khi kết hôn, đồng thời ông H là anh trai của anh Nguyễn Hữu H cung cấp: “chị Trần Thị Tuyết C và anh Nguyễn Hữu H có đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B. Thời gian đầu chị C và anh H chung sống hạnh phúc, đến khoảng cuối năm 2016 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Lúc đó anh H và gia đình động viên nên chị C rút đơn ly hôn. Tuy nhiên, anh H tính tình không bình thường, dùng lời lẽ xúc phạm và hay đánh đập vợ con, thậm chí đe dọa tính mạng của chị C và gia đình. Chị C và anh H đã sống ly thân từ thời điểm cuối năm 2016 cho đến nay. Nay chị C khởi kiện ly hôn với anh H đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, cuộc sống hôn nhân của chị C và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ những phân tích trên cho thấy, yêu cầu ly hôn của chị C là có cơ sở chấp nhận. Áp dụng quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Tuyết C đối với anh Nguyễn Hữu H.

[4.2] Về con chung: Quá trình chung sống chị C và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Hữu Thiên A, sinh ngày 07/01/2010. Chị C yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Thiên A, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Mặt khác, cháu Thiên A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, giao cháu Nguyễn Hữu Thiên A, sinh ngày 07/01/2010 cho chị Trần Thị Tuyết C trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4.3] Về tài sản chung: Chị Trần Thị Tuyết C khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Anh Nguyễn Hữu H vắng mặt không có lời khai. Do đó, Tòa án không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện C a tài sản chung sau ly hôn bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.

[4.4] Về nợ chung: Chị C khai không có nên không xem xét, giải quyết.

[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết C phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 68, Khoản 4 Điều 147, 220, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 51, 56, 57, 58, 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết C đối với anh Nguyễn Hữu H về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Tuyết C được ly hôn anh Nguyễn Hữu H.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Hữu Thiên A, sinh ngày 07/01/2010 cho chị Trần Thị Tuyết C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Tạm thời anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh H không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung: Chị C khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: Chị C khai không có nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

2. Về án phí:

Chị Trần Thị Tuyết C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí chị C đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008552 ngày 25 tháng 6 năm 2019 của C cục Thi hành án Dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai; chị C đã nộp đủ tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 300/2019/HNGĐ-ST

Số hiệu:300/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;