Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 134/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 134/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Hôm nay, ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 2106/2022/TLST- HNGĐ ngày 09/12/2021 về tranh chấp “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 174/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sư:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Trần Thị L, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Ông Đ có đơn xin vắng mặt, bà L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19/4/2022, nguyên đơn ông Nguyễn Kim Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà L kết hôn với nhau vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An, có tổ chức cưới hỏi. Trong thời gian đầu chung sống có hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn; Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính tình, chuyện nuôi dạy con cái dẫn đến hay gây gỗ, cãi vả với nhau, cuộc sống không hạnh phúc. Vợ chồng ông đã tìm cách hòa giải nhưng không có kết quả. Ông xác định mâu thuẫn giữa hai người đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài nên bà làm đơn xin được ly hôn với bà L.

Về con chung: Ông Đ xác định có 03 (ba) con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 07/8/2011; Nguyễn Thị Thanh A, sinh ngày 19/3/2015 và Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 18/12/2020. Hiện cả ba cháu đang sống cùng ông và bà L. Ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai cháu Thanh T và Thanh A; ông đề nghị giao cháu Bảo T1 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục do cháu còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi. Tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Ông Đ xác định vợ chồng ông không có nợ chung.

Do bận công việc nên ông đề nghị vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Bị đơn bà Trần Thị L đã được tống đạt giấy triệu tập và các văn bản theo trình tự tố tụng hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc, tham gia tố tụng cũng như xét xử nên không có lời khai, văn bản trình bày ý kiến về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; Xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ đối với bà L, giao hai con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 07/8/2011; Nguyễn Thị Thanh A, sinh ngày 19/3/2015 cho ông Đ nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 18/12/2020 cho bà L nuôi dưỡng, không xem xét việc cấp dưỡng vì ông Đ không có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tố tụng:

- Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Ông Nguyễn Kim Đ khởi kiện yêu cầu ly hôn bà Trần Thị L và yêu cầu được nuôi con chung. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định ông Đ là nguyên đơn, bà L là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

- Về thẩm quyền giải quyết: Qua xác minh tại địa phương, bà Trần Thị L có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của ông Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về thủ tục tố tụng khác: Ông Nguyễn Kim Đ có đơn xin xét xử vắng mặt phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận, còn bị đơn bà Trần Thị L đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Ông Nguyễn Kim Đ và bà Trần Thị L chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An cấp giấy chứng nhận kết hôn số 06, quyển số 01/2011, ngày 14/01/2011. Đối chiếu quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định hôn nhân của ông Đ và bà L là hợp pháp.

Ông Đ khai sau quá trình chung sống ban đầu thì hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng ông đã tìm cách hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện nay vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm nhau.

Xét thấy: Tại biên bản xác minh ngày 04 tháng 01 năm 2022, Ủy ban nhân dân phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xác định không có biết mâu thuẫn của ông Đ và bà L vì các đương sự không trình báo, không yêu cầu hòa giải. Quá trình giải quyết, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng theo quy định cho bà L nhưng bà L không đến làm việc, tham gia tố tụng cũng như tham gia phiên tòa xét xử. Điều này chứng tỏ bà L đã không còn thiết tha, không còn quan tâm và mặc kệ quan hệ hôn nhân với ông Đ. Như vậy, mâu thuẫn giữa ông Đ và bà L là có thật, trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ, ông Đ được ly hôn bà L là phù hợp.

Về con chung: Ông Đ xác định có 03 (ba) con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 07/8/2011; Nguyễn Thị Thanh A, sinh ngày 19/3/2015 và Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 18/12/2020. Hiện cả ba cháu đang sống cùng ông và bà L. Ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai cháu Thanh T và Thanh A; ông đề nghị giao cháu Bảo T1 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục do cháu còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi. Tạm thời không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con chung. Bà L không có văn bản trình bày ý kiến.

Xét, ông Đ có công việc là thợ Bảo T1rì máy, thu nhập ổn định mỗi tháng từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, đủ khả năng nuôi hai cháu Thanh T và Thanh A. Riêng cháu Bảo T1 còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi. Mặc dù bà L không có văn bản trình bày ý kiến nhưng không có tài liệu, chứng cứ thể hiện việc bà L không có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì vậy, để tránh ảnh hưởng, xáo trộn đến cuộc sống, tâm sinh lý, sinh hoạt hằng ngày của cháu Bảo T1 nên Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Bảo T1 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp. Tạm thời, không ai cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung, ông Đ xác định tự thỏa thuận; Về nợ chung, ông Đ xác định không có nên không yêu cầu xem xét, giải quyết. Bà L không có lời khai, văn bản trình bày ý kiến nên không đủ cơ sở xác định đối với phần tài sản chung, nợ chung. Vì vậy, đối với phần tài sản chung, nợ chung tách ra giải quyết bằng vụ việc khác khi các đương sự có yêu cầu giải quyết theo quy định.

[3] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Kim Đ phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, 227, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Kim Đ đối với bà Trần Thị L.

Cho ông Nguyễn Kim Đ được ly hôn bà Trần Thị L.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 07/8/2011; Nguyễn Thị Thanh A, sinh ngày 19/3/2015 cho ông Nguyễn Kim Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; Giao cháu Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 18/12/2020 cho bà Trần Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm thời, không ai cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Ông Đ, bà L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về tài sản chung: Ông Đ xác định tự thỏa thuận; Về nợ chung, ông Đ xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, bà L vắng mặt không có lời khai nên không Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Kim Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí ông Đ đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000618 ngày 06/12/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Ông Đ đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Kim Đ, bà Trần Thị L được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 134/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:134/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;