TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 115/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 222/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/9/2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị V2 Thị Thúy V, sinh năm: 1987 Bị đơn: Anh Nguyễn Đức V1, sinh năm 1983 Cùng địa chỉ: Ấp Ngọc Lâm 1, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (Chị V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh V1 vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/5/2022, lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử nguyên đơn chị V2 Thị Thúy V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Đức V1 tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân năm 2006, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Thanh, huyện Tân Phú và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định.
Đời sống hôn nhân của vợ chồng chị đầm ấm, hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh V1 không chăm lo làm ăn, quan tâm chăm sóc gia đình nên vợ chồng xảy ra cãi vã, chị V đã nhiều lần cho anh V1 cơ hội sửa chữa nhưng anh V1 vẫn không thay đổi. Vợ chồng sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, nay chị V không còn tình cảm với anh V1 nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức V1.
Về con chung: Vợ chồng 03 con chung là Nguyễn Đức Anh V2, sinh ngày 26-9-2007, Nguyễn Hoàng V3, sinh ngày 09-11-2009, Nguyễn Hoàng Đoan Tr, sinh ngày 19-11-2012. Khi ly hôn chị V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng ba con, không yêu cầu cấp dưỡng.
Về tài sản chung: chị V trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Chị V trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Đức V1 mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử không có ý kiến, đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.
Để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, nguyên đơn đã nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân của chị V, sổ hộ khẩu gia đình (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); giấy khai sinh của con chung (bản sao); lời khai của nguyên đơn tại bản tự khai; Đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp Tòa án đã tiến hành sao gửi hợp lệ cho bị đơn.
Để giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận cho chị V ly hôn với anh Nguyễn Đức V1.
về con chung: Đề nghị giao ba con chung là Nguyễn Đức Anh V2, sinh ngày 26-9-2007, Nguyễn Hoàng V3, sinh ngày 09-11-2009, Nguyễn Hoàng Đoan Tr, sinh ngày 19-11-2012 cho chị V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, anh V1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị V không yêu cầu.
Về tài sản chung, nợ chung: dành quyền khởi kiện về tài sản chung, nợ chung cho các đương sự bằng vụ án khác khi có yêu cầu. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị V2 Thị Thúy V khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Đức V1, tranh chấp về nuôi ba con chung là Nguyễn Đức Anh V2, sinh ngày 26-9-2007, Nguyễn Hoàng V3, sinh ngày 09-11-2009, Nguyễn Hoàng Đoan Tr, sinh ngày 19-11-2012. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Anh Nguyễn Đức V1 là bị đơn có nơi cư trú tại: xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Nguyễn Đức V1, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị V, anh V1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Thanh, huyện Tân Phú vào ngày 10-10-2006, do đó đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
[4] Đời sống hôn nhân của chị V, anh V1 đầm ấm, hạnh phúc đến năm 2019 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V1 không quan tâm, chăm sóc gia đình, không chăm lo làm ăn nên vợ chồng xảy ra cãi vã. Ngoài ra anh V1 thường hay vắng nhà mà chị V không biết đi đâu. Hiện nay tuy vợ chồng còn sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của vợ chồng việc này phù hợp với biên bản xác minh về mâu thuẫn vợ chồng.
[5] Từ những lý do nêu trên, xác định được chị V, anh V1 trong quá trình sống chung đã không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình thì yêu cầu ly hôn của chị V đối với anh V1 là có cơ sở chấp nhận.
[6] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Trong thời gian sống chung các con chung chủ yếu là do chị V chăm sóc, giáo dục tốt về mọi mặt, cả ba con chung đều có nguyện vọng muốn sống chung với chị V. Do đó để không xáo trộn đời sống của các cháu nên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị V là có cơ sở chấp nhận. Vì vậy giao ba con chung là Nguyễn Đức Anh V2, sinh ngày 26-9-2007, Nguyễn Hoàng V3, sinh ngày 09-11-2009, Nguyễn Hoàng Đoan Tr, sinh ngày 19-11-2012 cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, tạm thời anh V1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị V không có yêu cầu. Anh V1 có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
[7] Về tài sản chung: chị V trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.
[8] Về nợ chung: chị V trình bày không có, nên không xem xét. Đối với anh V1 nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung với chị V thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[9] Về án phí: Chị V là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, do đó phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[10] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 85, 91, 92, 93 Luật hôn nhân gia đình năm 2000; Các điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị V2 Thị Thúy V về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” đối với anh Nguyễn Đức V1.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị V2 Thị Thúy V được ly hôn anh Nguyễn Đức V1.
2. Về nuôi con chung: Giao ba con chung là Nguyễn Đức Anh V2, sinh ngày 26-9-2007, Nguyễn Hoàng V3, sinh ngày 09-11-2009, Nguyễn Hoàng Đoan Tr, sinh ngày 19-11-2012 cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, tạm thời anh V1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị V không có yêu cầu. Anh V1 có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét; về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Khi nào có tranh chấp về chia tài sản chung và nợ chung sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
4. Về án phí: Chị V2 Thị Thúy V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, khấu trừ vào số tiền chị V đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0002518 ngày 19/5/2022 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí. Chị V đã nộp đủ.
Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
5. Về quyền kháng cáo: Chị V, anh V1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 115/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 115/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về