TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 08/2024/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 14 tháng 3 năm 2024, tại Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 211/2023/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà H J Mlô (H Y Mlô), sinh năm 1989 – có mặt Địa chỉ: Buôn T 4, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk
Bị đơn: Ông Y R Niê, sinh năm 1973 - vắng mặt Địa chỉ: Buôn T 4, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà H J Mlô trình bày có nội dung:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà H J Mlô và ông Y R Niê sống với nhau trên tinh thần tự nguyện, không có ai ép buộc, có đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện K (nay là xã E, thị xã B), tỉnh Đăk Lăk ngày 12/7/2004.
Thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc nhưng đến sau đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cãi nhau thường xuyên, bà H J Mlô cũng đã cố gắng hàn gắn nhưng không được, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên năm 2015 vợ chồng đã sống ly thân. Vì vậy bà H J Mlô nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Y R Niê.
Về con chung: Quá trình chung sống, bà H J Mlô và ông Y R Niê có hai con chung là cháu Y W Mlô, sinh ngày 28/01/2005 và cháu Y H Mlô, sinh ngày 05/9/2010. Cháu Y W Mlô do đã trưởng thành, đủ tuổi thành niên (Trên 18 tuổi) nên bà H J Mlô không yêu cầu Tòa án giải quyết, bà H J Mlô có nguyện vọng nuôi cháu Y H Mlô, mặt khác cháu Y H Mlô cũng có nguyện vọng ở với mẹ, vì vậy bà H J Mlô đề nghị Tòa án giao cháu Y H Mlô cho bà nuôi đến khi đủ tuổi thành niên.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H J Mlô và ông Y R Niê tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và công nợ: Bà H J Mlô không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn ông Y R Niê mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng đều vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành giải quyết và xét xử vắng mặt ông Y R Niê theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án tại phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, bà H J Mlô vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về khởi kiện và thụ lý vụ án: Ngày 25-9-2023 nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo; ngày 04-10-2023, Toà án Thông báo nộp tạm ứng án phí; cùng ngày nguyên đơn nộp tạm ứng án phí. Tòa án thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn, tranh chấp về con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
[4] Về yêu cầu của đương sự:
[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà H J Mlô và ông Y R Niê là quan hệ hôn nhân hợp pháp, vợ chồng đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống chị bà H J Mlô xác định vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, không cùng chung quan điểm sống, trong sinh hoạt hàng ngày thường xuyên bất đồng quan điểm và hiện nay vợ chồng đã nhiều năm sống ly thân.
Qua xác minh tại chính quyền địa phương về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của bà H J Mlô và ông Y R Niê thì địa phương cung cấp quá trình sống tại địa phương giữa bà H J Mlô và ông Y R Niê khi phát sinh mâu thuẫn không ai trình báo với chính quyền địa phương nên chính quyền địa phương không nắm được, nhưng hiện tại bà H J Mlô và ông Y R Niê đã sống ly thân nhiều năm.
Hội đồng xét xử xét thấy giữa bà H J Mlô và ông Y R Niê đã vi phạm đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho bà H J Mlô ly hôn ông Y R Niê là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4.2] Về con chung: Quá trình chung sống, bà H J Mlô và ông Y R Niê có hai con chung là cháu Y W Mlô, sinh ngày 28/01/2005 và cháu Y H Mlô, sinh ngày 05/9/2010. Cháu Y W Mlô do đã trưởng thành, đủ tuổi thành niên (trên 18 tuổi) nên bà H J Mlô không yêu cầu Tòa án giải quyết, bà H J Mlô có nguyện vọng nuôi cháu Y H Mlô và cháu Y H Mlô cũng có nguyện vọng ở với mẹ. HĐXX thấy rằng con chung cháu Y H Mlô, sinh ngày 05/9/2010 đang còn nhỏ, từ khi bà H J Mlô và ông Y R Niê ly thân cho đến thời điểm hiện tại thì cháu Y H Mlô sống cùng với bà H J Mlô, để đảm bảo quyền lợi ích và phát triển tâm sinh lý bình thường của cháu Y H Mlô, nên HĐXX xét thấy cần chấp nhận nguyện vọng của bà H J Mlô là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H J Mlô không yêu cầu Toà án giải quyết, nên HĐXX không đề cập.
[4.3] Về tài sản chung và công nợ: Bà H J Mlô không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đề cập.
[5] Về án phí: Nguyên đơn bà H J Mlô phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Bị đơn ông Y R Niê không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà H J Mlô được ly hôn với ông Y R Niê.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Y H Mlô, sinh ngày 05/9/2010 cho bà H J Mlô trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).
Ông Y R Niê có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
3. Về cấp dưỡng, tài sản chung và công nợ chung: Bà H J Mlô không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đề cập xem xét.
Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Nguyên đơn bà H J Mlô phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2021/0018644 ngày 04-10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B. Bị đơn ông Y R Niê không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án 08/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 08/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về