TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 23 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 14/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 giữa:
1.Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị T, sinh năm 1993 HKTT: Thôn D, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện cư trú tại: Thôn 6, xã K, huyện T, TP Hải Phòng.
Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.
2.Bị đơn: Anh Trần Văn P, sinh năm 1987. Vắng mặt.
HKTT trước khi xuất cảnh: Thôn D, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện cư trú tại Đài Loan – Trung Quốc.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Đình H – Luật sư công ty Luật – Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng. Địa chỉ: 10/38/317A Đ, V, N, TP Hải Phòng. Vắng mặt 4. Người làm chứng: Ông Trần Văn K – Sinh năm 1954. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn D, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Đỗ Thị T trình bày: Chị và anh Trần Văn Ph tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương ngày 09/01/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống, không tin tưởng và quan tâm tới nhau. Năm 2016 anh P đi lao động ở Đài Loan (Trung Quốc), vợ chồng cũng không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau, do vậy chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh P theo quy định.
Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Trần Anh H – Sinh ngày 11/8/2015 hiện đang ở với chị. Nay ly hôn chị có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh Phong cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại lời khai của ông Trần Văn K (bố đẻ anh P) thể hiện: Anh P hiện đang sinh sống và lao động ở Đài Loan (Trung Quốc), gia đình không biết địa chỉ cụ thể. Nguyên nhân mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh P và chị T là do vợ chồng không hòa hợp. Sau khi anh P đi nước ngoài lao động, chị T ở gia đình ông được khoảng 2 năm thì về nhà bố mẹ đẻ sinh sống cho đến nay. Nay chị Thơm có đơn ly hôn, gia đình ông đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh P cũng thường xuyên liên lạc với gia đình và có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung nhất trí để chị Thơm trực tiếp nuôi con, trường hợp chị T yêu cầu cấp dưỡng thì anh P sẽ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh P đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Tòa án xác minh tại địa phương nơi đương sự sinh sống thể hiện: Chị T, anh P có đăng ký kết hôn tại địa phương. Trong quan hệ hôn nhân đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống, chị T đã bỏ về gia đình bố mẹ đẻ ở từ lâu. Nay chị T có đơn ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, chị T vắng mặt và có đơn đề nghị giữ nguyên đối với yêu cầu khởi kiện. Anh P đề nghị giải quyết vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Đối với các đương sự: nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 71, 72 BLTTDS. Bị đơn giấu địa chỉ, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 82, 83 Luật HN&GĐ, Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận cho chị Đỗ Thị T được ly hôn anh Trần Văn P; Về con chung: Giao cháu Trần Anh H sinh ngày 11/8/2015 cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Đỗ Thị T sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Trần Văn P có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T và gia đình không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Phong ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, ông Trần Văn K là bố đẻ anh P vẫn thường xuyên liên lạc với anh nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho anh P biết. Tại phiên tòa, chị T, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị T vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Anh P vắng mặt và đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị T và anh Trần Văn P tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương ngày 09/01/2014 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống, không tin tưởng nhau. Năm 2016 anh Phong đi lao động ở Đài Loan (Trung Quốc), vợ chồng cũng không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau. Do vậy chị và con đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống cho đến nay. Bản thân anh P cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn giữa chị chị Thơm và anh P đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Căn cứ Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Đỗ Thị T ly hôn anh Trần Văn P là phù hợp.
[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Đỗ Thị T và anh Trần Văn P có một con chung là Trần Anh H– Sinh ngày 11/8/2015. HĐXX xét thấy con chung hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ và hiện chị T đang nuôi dưỡng, anh P cũng nhất trí để chị T trực tiếp nuôi con. Do vậy giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng cho con. Như vậy là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T, anh P xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy, HĐXX không đặt ra giải quyết.
[3]. Về án phí: Nguyên đơn chị Đỗ Thị T, phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị T ly hôn anh Trần Văn P 2. Về nuôi con: Giao cho chị Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Trần Anh H – Sinh ngày 11/8/2015 cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Đỗ Thị T không yêu cầu anh Trần Văn P phải cấp dưỡng cho con.
Không ai được cản trở anh Trần Văn P thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3.Về án phí: Chị Đỗ Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0004688 ngày 17 tháng 01 năm 2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 76/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 76/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về