Bản án 70/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 70/2024/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 137/2023/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1996 Nơi cư trú: Xóm 4, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1993 Nơi cư trú: Xóm Th, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại biên bản ghi lời khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Trần Văn H kết hôn vào ngày 10/02/2017, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Yên Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách, quan điểm sống hai bên không phù hợp. Anh H sống không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Mặc dù chị và gia đình hai bên đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh H vẫn không thay đổi được, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Không thể sống chung cùng anh H nên từ đầu năm 2022 chị đã đưa con về bên ngoại sống ly thân anh H. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hai bên không thể tiếp tục sống chung, do đó chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh H được ly hôn.

Chị L và anh H có 01 người con chung là Trần Đức Bảo Kh, sinh ngày 22/9/2017. Ly hôn, chị yêu cầu được giao nuôi con và không yêu cầu anh H pH cấp dưỡng nuôi con.

Chị L và anh H không có tài sản chung. Do đó chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Chị L và anh H không có khoản nợ chung.

Đối với bị đơn anh Trần Văn H, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện, mặc dù nhận được thông báo thụ lý vụ án và được giao nhận giấy triệu tập, thông báo hợp lệ nhưng anh Trần Văn H không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà anh Trần Văn H vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp phát biểu ý kiến: Qua kiểm sát giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn, đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị L được ly hôn anh H; Về con chung: Giao con chung Trần Đức Bảo Khang, sinh ngày 22/9/2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh H. Về tài sản: Chị L không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét; Về án phí: Chị L pH chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Trần Văn H có hộ khẩu thường trú tại xóm Thái Lão, xã Yên Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Hôn nhân của chị L và anh H là hôn nhân hợp pháp, đảm bảo về điều kiện kết hôn và được đăng ký kết hôn đúng quy định. Sau khi kết hôn, chị L và anh H sống chung không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và đầu năm 2022 đến nay chị L và anh H đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án chị L một mực xin ly hôn anh H, tại phiên toà chị L vẫn cương quyết giữ nguyên yêu cầu đó. Xét thấy hôn nhân của chị L, anh H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị L, cho chị L được ly hôn anh H.

Về con chung: Con chung của chị L, anh H là cháu Trần Đức Bảo Kh. Từ khi chị L, anh H sống ly thân đến nay, cháu Khang sống cùng chị L, do chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Kh đang còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Chị L có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, có các điều kiện đảm bảo cho việc học tập, giáo dục con phát triển lành mạnh. Do đó, căn cứ quyền lợi mọi mặt của con chung, chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cháu Kh cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh H.

Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Đối với anh Trần Văn H, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, mặc dù được giao nhận giấy triệu tập, thông báo hợp lệ nhưng anh H không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh H vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt anh H.

[4] Về án phí: Chị L pH chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Trần Văn H.

Về con chung: Giao con chung Trần Đức Bảo Kh, sinh ngày 22/9/2017 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 5/2024 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Trần Văn H. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì quyền và lợi ích của con chung, hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị L pH chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), số tiền trên được khấu trừ trong số tiền tạm ứng án phí 300.000,đ chị Nguyễn Thị L đã nộp theo biên lai thu số 0006039 ngày 08 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:70/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;