Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 42/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 73/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 06 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36a/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 08 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Trần Thị H, sinh năm 1971. Địa chỉ: khu tập thể nhà máy thuốc lá, tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2. Bị đơn: anh Đỗ Khắc T, sinh năm 1967. Địa chỉ: khu tập thể nhà máy thuốc lá, tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 30/05/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Đỗ Khắc T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 26/12/1992 tại Ủy an nhân dân thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống đến tháng 10/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ con. Tháng 10/2020, chị đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn anh T, nhưng anh T xin cơ hội để sửa đổi, nên chị đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, kể từ sau khi chị rút đơn khởi kiện, anh T không chịu sửa đổi tính nết, vẫn chứng nào tật ấy. Chị và anh T tuy ở chung cùng nhà, nhưng không còn quan tâm đến nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: chị và anh T có 02 con chung, các cháu tên là Đỗ Ngọc T, sinh ngày 23/10/1993 và Đỗ Thị T1, sinh ngày 30/12/1999. Hiện tại cả hai cháu đã trưởng thành, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh Đỗ Khắc T đến Toà án để viết bản khai nhưng anh T đã không có mặt mà không có lý do, nên không có bản khai của anh T.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị H đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: anh Đỗ Khắc T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để đến Tòa án tham gia phiên hòa giải nhưng không có mặt mà không có lý do, nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh T cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do, chị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H và anh T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: chị Trần Thị H khai, chị và anh Đỗ Khắc T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 26/12/1992. Chị H cũng xuất trình cho Tòa án một giấy Chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp đề ngày 26/12/1992, trong đó xác định anh Đỗ Khắc T là chồng chị Trần Thị H. Như vậy, đủ cơ sở khẳng định hôn nhân giữa chị H và anh T là hợp pháp.

Cũng theo chị H khai, vợ chồng chung sống đến tháng 10/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ con. Chị và anh T tuy ở cùng nhà, nhưng hai bên không còn quan tâm đến nhau. Theo kết quả xác minh ngày 23/06/2021, có xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn H, quá trình chung sống, giữa anh T và chị H thường xuyên mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T và chị H bất đồng quan điểm, anh T thường xuyên rượu chè và đánh đập chị H, gây mất trật tự trị an khu dân cư. Mặc dù đã được hàng xóm và đại diện tổ dân phố nhắc nhở nhiều lần, nhưng mâu thuẫn giữa anh T và chị H vẫn không được cải thiện. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị H và anh T luôn tồn tại mâu thuẫn, xung đột làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị H được ly hôn anh T là phù hợp

[3]. Về con chung: chị Trần Thị H khai, chị và anh Đỗ Khắc T có 02 con chung, các cháu tên là Đỗ Ngọc T, sinh ngày 23/10/1993 và Đỗ Thị T1, sinh ngày 30/12/1999. Hiện nay, các cháu đã trưởng thành, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[4]. Về tài sản: chị Trần Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5]. Về án phí: chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Đỗ Khắc T.

2. Về án phí: chị Trần Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009363 ngày 08/06/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị H đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: chị Trần Thị H và anh Đỗ Khắc T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 42/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;