Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH Y 

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 196/2021/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 10 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXX-ST ngày 25 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Th 41 tuổi

Địa chỉ: Thôn Tr- xã M- huyện L- Y, có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Đình Kh 41 tuổi

Địa chỉ: Thôn Tr- xã M- huyện L- Y, vắng mặt.

Người có quyền lợi liên quan:

- Bà Trịnh Thị H

Địa chỉ: Thôn Tr- xã M- huyện L- tỉnh Y.

- Bà Trịnh Kim O

Địa chỉ: Tổ 7 thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y.

- Bà Trần Thị N

Địa chỉ: Tổ 5 thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y.

- Chị Bùi Thị T

Địa chỉ: Tổ 5 thị trấn YT- huyện L- tỉnh Y.

- Chị Bùi Thị Kh

Địa chỉ: Tổ 3 thị trấn M- huyện M C Ch- tỉnh Y.

Bà Trịnh Thị H có mặt; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đề nghị giải quyết- xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20-10-2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Bùi Thị Th trình bày: Chị và anh Nguyễn Đình Kh kết hôn tháng 3 năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn lại tại UBND xã M- huyện L- tỉnh Y. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc bình thường, đến năm 2018 mâu thuẫn phát sinh do lối sống, quan điểm không hợp nhau; anh Kh thường xuyên uống rượu về gây sự, chửi bới, đánh đập chị. Mặc dù đã nhiều lần tha thứ, khuyên nhủ nhưng anh Kh không thay đổi; hiện tại vợ chồng ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Xác định không còn tình cảm, chị đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Chị và anh Kh có hai cháu là Nguyễn Trường V sinh ngày 16-12-2004 và Nguyễn Tùng L sinh ngày 05-7-2014. Khi ly hôn chị sẽ nuôi cháu Nguyễn Tùng L; anh Kh nuôi cháu Nguyễn Trường V.

Trong thời gian chung sống, vợ chồng có các tài sản chung gồm: Một ngôi nhà xây cấp 4 ba gian; bếp và các công trình phụ trị giá khoảng 500.000.000 đồng;

ba chiếc xe máy trị giá khoảng 20.000.000 đồng; ba chiếc điện thoại trị giá khoảng 15.000.000 đồng; hai chiếc điều hoà trị giá 20.000.000 đồng; Một kệ gỗ trị giá 8.000.000 đồng; một bộ bàn ghế trị giá 5.000.000 đồng; hai chiếc tủ quần áo trị giá 8.000.000 đồng. Thửa đất làm nhà là của mẹ chồng- bà Trịnh Thị H. Về Nợ chung, hiện tại vợ chồng còn nợ của các cá nhân sau: Bà Trịnh Thị H ở thôn Trần Phú- xã M 90.000.000 đồng; bà Trịnh Kim O ở tổ 7 thị trấn YT 20.000.000 đồng; bà Trần Thị N ở tổ 5 thị trấn YT 20.000.000 đồng; chị Bùi Thị T ở tổ 5 thị trấn YT 16.000.000 đồng; chị Bùi Thị Kh ở tổ 3 thị trấn M- huyện M C C 8.000.000 đồng. Khi ly hôn chị đề nghị giải quyết tài sản chung, nợ chung theo quy định của pháp luật với nguyện vọng anh Kh sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền cho chị.

Trong bản tự khai và tại phiên hoà giải bị đơn là anh Nguyễn Đình Kh trình bày cơ bản như lời khai của chị Th, nay cũng xác định không còn tình cảm anh nhất trí ly hôn. Về con chung nếu ly hôn anh sẽ nuôi con, không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng. Tài sản chung vợ chồng có một ngôi nhà xây cấp 4; bếp và các công trình phụ trị giá khoảng 500.000.000 đồng; ba chiếc xe máy trị giá khoảng 30.000.000 đồng; ba chiếc điện thoại trị giá khoảng 15.000.000 đồng; hai chiếc điều hoà trị giá 20.000.000 đồng. Thửa đất làm nhà là của bố mẹ anh cho mượn. Nợ chung như lời khai của chị Th. Ly hôn tài sản chung, nợ chung chia đôi; nếu ai lấy căn nhà thì phải thoả thuận mua bán thửa đất với bố mẹ.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Trịnh Thị H trình bày: Bà là mẹ đẻ anh Nguyễn Đình Kh. Hiện tại vợ chồng anh Kh- chị Th còn nợ bà 110.000.000 đồng; mặt khác thửa đất anh Kh- chị Th làm nhà cũng là của bà. Nếu các con ly hôn thì phải trả lại cho bà thửa đất và số tiền trên.

Bà Trịnh Kim O trình bày: Vợ chồng anh Kh- chị Th có mua của bà máy điều hoà, hiện tại anh chị còn nợ 20.000.000 đồng, nếu ly hôn yêu cầu anh chị phải trả lại cho bà số tiền trên.

Bà Trần Thị N trình bày: Bà là mẹ đẻ chị Bùi Thị Th. Khi làm nhà vợ chồng anh Kh- chị Th có vay của bà 20.000.000 đồng, nay các con ly hôn thì phải trả lại cho bà số tiền trên.

Chị Bùi Thị T trình bày: Bùi Thị Th là em gái của chị. Năm 2018 vợ chồng chị Th- anh Kh có vay của chị 16.000.000 đồng, nay các em ly hôn thì phải trả lại cho chị số tiền trên.

Chị Bùi Thị Kh trình bày: Chị và Bùi Thị Th là hai chị em gái. Năm 2018 vợ chồng chị Th- anh Kh có vay của chị 8.000.000 đồng về làm nhà ở; nay hai người ly hôn thì phải trả lại cho chị số tiền trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự. Các đương sự đã cơ bản thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân và con chung: Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho chị Th được ly hôn với anh Kh; giao cháu Nguyễn Trường V cho anh Kh, giao cháu Nguyễn Tùng L cho chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án Các đương sự đã thống nhất phạm vi tài sản với tổng giá trị là 519.000.000 đồng và hiện còn nợ 05 cá nhân tổng số tiền là 174.000.000 đồng. Cả chị Th và anh Kh đều có công sức đóng góp như nhau trong việc tạo lập nên khối tài sản chung. Căn cứ các điều điều 33, điều 59, điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 357 Bộ luật Dân sự; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn giải quyết tài sản chung, nợ chung theo hướng chia đôi, cụ thể: Anh Nguyễn Đình Kh được quyền quản lý, sử dụng: 01 ngôi nhà xây cấp 4 ba gian, bếp và các công trình phụ có giá trị 470.000.000 đồng; 01 chiếc xe máy hiệu Wave RS đăng ký mang tên Nguyễn Đình Kh trị giá 5.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 12.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 8.000.000 đồng; 01 kệ gỗ trị giá 8.000.000 đồng; 01 bộ bàn ghế trị giá 5.000.000 đồng; 02 chiếc tủ quần áo trị giá 6.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 514.000.000 đồng. Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho bên nhà nội gồm: Bà Trịnh Thị H 110.000.000 đồng; bà Trịnh Kim O 20.000.000 đồng.

Chị Bùi Thị Th được quyền quản lý, sử dụng 01 chiếc xe máy hiệu Wave RS đăng ký mang tên Bùi Thị Th trị giá 5.000.000 đồng và có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho bên nhà ngoại gồm: Bà Trần Thị N 20.000.000 đồng; chị Bùi Thị T 16.000.000 đồng; chị Bùi Thị Kh 8.000.000 đồng Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán phần giá trị tài sản chênh lệch cho chị Bùi Thị Th số tiền là 211.500.000 đồng.

- Về án phí: Căn cứ điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5, khoản 7 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp giữa chị Bùi Thị Th và anh Nguyễn Đình Kh là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các đương sự có địa chỉ thường trú tại huyện L- tỉnh Y nên Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Đình Kh vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà Trịnh Kim O, bà Trần Thị N, chị Bùi Thị T và chị Bùi Thị Kh có đơn đề nghị vắng mặt nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan này là đúng quy định tại khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Th và anh Nguyễn Đình Kh kết hôn năm 2004, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Theo lời khai của các đương sự cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong những năm qua vợ chồng chị Th- anh Kh không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do quan điểm, tính cách, lối sống không hợp nhau; hai người hiện cũng đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Qúa trình giải quyết, anh Kh cũng thừa nhận vợ chồng sống không hạnh phúc và nhất trí ly hôn. Qua đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Th và anh Kh đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Th có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Vợ chồng chị Th- anh Kh có có hai cháu là Nguyễn Trường V sinh ngày 16-12-2004 và Nguyễn Tùng L sinh ngày 05-7-2014. Qúa trình giải quyết vụ án hai bên thống nhất quan điểm khi ly hôn mỗi người nuôi một cháu; anh Kh sẽ nuôi cháu Nguyễn Trường V, chị Th nuôi cháu Nguyễn Tùng L, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Sự thỏa thuận này là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của các cháu, phù hợp hoàn cảnh thực tế cần ghi nhận.

[4] Về tài sản chung; nợ chung: Qúa trình giải quyết vụ án các đương sự đã thoả thuận thống nhất các nội dung như sau:

Tài sản chung: Có 01 ngôi nhà xây cấp 4 ba gian; bếp và các công trình phụ có giá trị 470.000.000 đồng; 01 chiếc xe máy hiệu Wave RS đăng ký mang tên Nguyễn Đình Kh trị giá 5.000.000 đồng; 01 chiếc xe máy hiệu Wave RS đăng ký mang tên Bùi Thị Th trị giá 5.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 12.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 8.000.000 đồng; 01 kệ gỗ trị giá 8.000.000 đồng; 01 bộ bàn ghế trị giá 5.000.000 đồng; 02 chiếc tủ quần áo trị giá 6.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chung là 519.000.000 đồng.

Nợ chung: Hiện còn nợ bà Trịnh Thị H 110.000.000 đồng; bà Trịnh Kim O 20.000.000 đồng; bà Trần Thị N 20.000.000 đồng; chị Bùi Thị T 16.000.000 đồng; chị Bùi Thị Kh 8.000.000 đồng. Tổng nợ chung là 174.000.000 đồng.

* Anh Nguyễn Đình Kh được quyền quản lý, sử dụng: 01 ngôi nhà xây cấp 4 ba gian; bếp và các công trình phụ có giá trị 470.000.000 đồng; 01 chiếc xe máy hiệu Wave RS đăng ký mang tên Nguyễn Đình Kh trị giá 5.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 12.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 8.000.000 đồng; 01 kệ gỗ trị giá 8.000.000 đồng; 01 bộ bàn ghế trị giá 5.000.000 đồng; 02 chiếc tủ quần áo trị giá 6.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 514.000.000 đồng. Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho bên nhà nội gồm: Bà Trịnh Thị H 110.000.000 đồng; bà Trịnh Kim O 20.000.000 đồng.

* Chị Bùi Thị Th được quyền quản lý, sử dụng 01 chiếc xe máy hiệu Wave RS đăng ký mang tên Bùi Thị Th trị giá 5.000.000 đồng. Chị Bùi Thị Th có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho bên nhà ngoại gồm: Bà Trần Thị N 20.000.000 đồng; chị Bùi Thị T 16.000.000 đồng; chị Bùi Thị Kh 8.000.000 đồng Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán cho chị Bùi Thị Th số tiền là 172.000.000 đồng.

Đối với thửa đất tại thôn Trần Phú- xã M vợ chồng làm nhà hiện nay các đương sự xác định không phải là tài sản chung mà là của mẹ anh Kh nên thống nhất khi ly hôn sẽ trả lại cho bà Trịnh Thị H.

Riêng về phương thức thanh toán các đương sự không thoả thuận được. Hiện tại hai mẹ con đã về ở nhờ bên ngoại nên chị Th yêu cầu anh Kh phải thanh toán số tiền trên làm 01 lần và phải thanh toán ngay để có điều kiện sinh sống nhưng anh Kh không nhất trí. Không thoả thuận được phương thức thanh toán nên chị Th yêu cầu tài sản chung, nợ chung chia đôi; do căn nhà xây trên thửa đất của bà Trịnh Thị H mẹ đẻ anh Kh nên ngoại trừ chiếc xe máy đăng ký mang tên Bùi Thị Th, số tài sản còn lại để anh Kh sử dụng và phải thanh toán tiền cho chị.

Mặc dù Toà án đã triệu tập nhiều lần để tiếp tục hoà giải nhưng anh Kh không có mặt. Tại phiên toà chị Bùi Thị Th giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về giải quyết tài sản chung, nợ chung. Xét yêu cầu của nguyên đơn thấy rằng:

Đối với khối tài sản chung đã được các bên xác định thì cả chị Th và anh Kh đều có công sức đóng góp như nhau trong việc tạo lập nên. Căn nhà của vợ chồng làm trên thửa đất của mẹ đẻ anh Kh là bà Trịnh Thị H (Thửa đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tại thôn Trần Phú- xã M. Hiện tại chị Th đã đưa cháu L về bên ngoại sinh sống tại thị trấn YT, nếu giao cho chị Th các tài sản trên thì việc quản lý, sử dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn… Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi…; Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên…”.

Đối chiếu quy định trên, yêu cầu của nguyên đơn về vấn đề tài sản chung, nợ chung có căn cứ chấp nhận. Tổng giá trị tài sản chung vợ chồng được xác định là 519.000.000 đồng; tổng số tiền hiện vợ chồng còn nợ của các cá nhân là 174.000.000 đồng. Chị Th và anh Kh mỗi người được chia ½ tổng giá trị khối tài sản chung và phải chịu trách nhiệm thanh toán ½ tổng số khoản nợ chung nêu trên. Trừ đi khoản nợ chung, chị Bùi Thị Th và anh Nguyễn Đình Kh mỗi người được hưởng ½ tổng giá trị khối tài sản chung còn lại là 172.500.000 đồng. Để đảm bảo thuận tiện trong việc thi hành thì tài sản do bên nào đang quản lý, sử dụng cần giao cho bên đó. Cụ thể chị Th quản lý, sử dụng 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RS đăng ký mang tên Bùi Thị Th và có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho bên nhà ngoại là bà Trần Thị N, chị Bùi Thị T, chị Bùi Thị Kh. Anh Kh quản lý, sử dụng các tài sản còn lại gồm 01 ngôi nhà xây cấp 4 ba gian; bếp và các công trình phụ; 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RS đăng ký mang tên Nguyễn Đình Kh; 02 chiếc điều hoà; 01 kệ gỗ; 01 bộ bàn ghế; 02 chiếc tủ quần áo và có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho bên nội là bà Trịnh Thị H và bà Trịnh Kim O. Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán phần giá trị tài sản chênh lệch cho chị Bùi Thị Th.

[5] Về án phí: Chị Bùi Thị Th phải chịu án phí ly hôn. Cả chị Th và anh Kh phải chịu án phí giải quyết tài sản chung, nợ chung.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đìnhđiểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sựTuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Bùi Thị Th được ly hôn với anh Nguyễn Đình Kh.

2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; giao cháu Nguyễn Trường V sinh ngày 16-12-2004 cho anh Nguyễn Đình Kh; giao cháu Nguyễn Tùng L sinh ngày 05-7-2014 cho chị Bùi Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở bên kia thực hiện quyền này.

3- Về tài sản chung, nợ chung: Căn cứ điều 33, điều 59, điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 357 Bộ luật Dân sự; khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

* Giao cho anh Nguyễn Đình Kh được quyền quản lý, sử dụng các tài sản sau: 01 ngôi nhà xây cấp 4 ba gian; bếp và các công trình phụ có giá trị 470.000.000 đồng; 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RS đăng ký mang tên Nguyễn Đình Kh trị giá 5.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 12.000.000 đồng; 01 chiếc điều hoà trị giá 8.000.000 đồng; 01 kệ gỗ trị giá 8.000.000 đồng; 01 bộ bàn ghế trị giá 5.000.000 đồng; 02 chiếc tủ quần áo trị giá 6.000.000 đồng. Tổng cộng 514.000.000 đồng.

Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ gồm: Bà Trịnh Thị H 110.000.000 đồng; bà Trịnh Kim O 20.000.000 đồng.

* Giao cho chị Bùi Thị Th được quyền quản lý, sử dụng 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RS đăng ký mang tên Bùi Thị Th trị giá 5.000.000 đồng.

Chị Bùi Thị Th có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ gồm: Bà Trần Thị N 20.000.000 đồng; chị Bùi Thị T 16.000.000 đồng; chị Bùi Thị Kh 8.000.000 đồng Anh Nguyễn Đình Kh có nghĩa vụ thanh toán phần giá trị tài sản chênh lệch cho chị Bùi Thị Th số tiền là 211.500.000 đồng.

Phần giá trị tài sản mỗi người được hưởng là 172.500.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, điểm b khoản 5, điểm b khoản 7 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chị Bùi Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn và 12.975.000 đồng án phí giải quyết tài sản chung, nợ chung; tổng cộng 13.275.000đ (Mười ba triệu hai trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng). Xác nhận chị Th đã nộp 8.675.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2021/0002067 ngày 28-10- 2021. Số tiền chị Th còn phải nộp tiếp là 4.600.000đ (Bốn triệu sáu trăm nghìn đồng).

- Anh Nguyễn Đình Kh phải chịu 12.975.000đ (Mười hai triệu chín trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng) án phí giải quyết tài sản chung, nợ chung.

5- Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Đối với người có mặt), trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án (Đối với người vắng mặt).

6- Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;