Bản án về ly hôn, tranh chấp chia tài sản chung và đòi tiền cấp dưỡng nuôi con số 14/2024/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 14/2024/HNGĐ-PT NGÀY 26/09/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG VÀ ĐÒI TIỀN CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai trực tuyến vụ án thụ lý số: 01/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng 01 năm 2024 về việc: “Ly hôn, tranh chấp chia tài sản chung và đòi tiền cấp dưỡng nuôi con”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 52/2023/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 42/2024/QĐPT- DS ngày 18 tháng 3 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 140/2024/QĐ-PT ngày 10 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phan Tiến B - sinh năm 1954 địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Nguyễn G - sinh năm 1959 ; Luật sư Văn phòng L1 thuộc đoàn luật sư tỉnh Q địa chỉ: Khu dân cư S, T, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị đơn: à Nguyễn Thị M - sinh năm 1954 địa chỉ: Thôn A, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo ủy quyền về phần tài sản của bị đơn: Ông Nguyễn Chí H - sinh năm 1958 địa chỉ: Tổ dân phố A, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi th o văn ản ủy uyền ngày 22/11/2022 .

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Bùi C - sinh năm 1977 2/ Chị Phan Thị C1 - sinh năm 1977 3/ Ông Văn Minh K;

4/ Bà Phạm Thị H1;

5/ Ông Nguyễn P;

Cùng địa chỉ: Thôn A, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

6/ Ủy ban nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo pháp luật: Ông ùi Văn L – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Đ.

Địa chỉ: Tổ dân phố , phường N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người kháng cáo: Ông Phạm Tiến B là nguyên đơn và à Nguyễn Thị M là bị đơn.

(Ông Văn Minh K, bà Phạm Thị H1, ông Nguyễn P vắng mặt; Ủy ban nhân dân thị xã Đ vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn yêu cầu độc lập ngày 24/8/2020 và đơn yêu cầu độc lập bổ sung ngày 16/11/2020; tại các bản trình bày ý kiến và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phan Tiến B, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông trình bày:

Năm 1974, ông Phan Tiến B và à Nguyễn Thị M tự nguyện chung sống v i nhau, không c đăng k kết hôn. Sau khi ông B và à M sống chung, cha m của ông B c cho ông B và à M thửa đất số 516, tờ ản đồ số 27 thuộc xã P, diện tích 1513,4m2 (viết tắt là thửa 516 để làm nhà ở.

Việc bà M khai thửa đất này do tự ông B và bà M khai hoang chỉ 50m2 đất ở, sau khi ông B lên T bà M m i tiếp tục khai hoang làm diện tích thửa đất tăng như hiện nay là không c cơ sở và mâu thuẫn v i các văn ản trình bày ý kiến của bà M trư c đây trong vụ án tranh chấp thừa kế đối v i thửa đất này; bà M khai năm 1976, do kh khăn kinh tế nên bà M cùng v i ông B đã lên rừng chặt cây, xin tre của bà con và mua ngói về làm căn nhà vách trét đất để trú ngụ một thời gian, đến năm 2016 à M m i xây dựng lại căn nhà cấp IV. Đồng thời, ông B cũng không thống nhất việc bà M khai thửa đất này được cân đối theo Nghị định 64/CP vì phương án chia đất không có người k và không c cơ uan nào phê duyệt để giao đất, mặt khác tại hồ sơ kê khai đăng k cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà M kê khai nguồn gốc đất do ông à lưu hạ. Bà M chỉ là người đứng ra kê khai toàn bộ thửa đất, còn về nguồn gốc đất thì vẫn là của cha m ông B. Cha m ông B đã cho vợ chồng ông, nên toàn bộ thửa đất này là tài sản chung của ông B và bà M, không còn liên uan đến anh chị em khác trong gia đình ông B. Nay ông B yêu cầu Tòa án chia toàn ộ thửa 516 làm hai phần. Ông B yêu cầu nhận diện t ch đất trống không có công trình kiên cố còn lại diện t ch đất c nhà cấp IV thì giao cho à M.

Đối v i yêu cầu phản tố của à Nguyễn Thị M, yêu cầu được chấm dứt hôn nhân và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là chị Phan Thị C1: Ông B đã lên Đắk Lắk công tác và đã chung sống v i bà H2 Êban từ năm 1980 đến nay, giữa ông và bà M đã không còn chung sống v i nhau từ năm 1980. Nay à M yêu cầu chấm dứt hôn nhân, ông B thống nhất ly hôn về cấp dưỡng nuôi con, ông B không đồng ý vì việc cấp dưỡng chỉ xác định khi con chưa thành niên nên ông B yêu cầu Tòa án x m xét giải uyết th o uy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn à Nguyễn Thị M trình bày:

à và ông Phan Tiến B tự nguyện sống chung v i nhau từ năm 1974 đến năm 1977. Sau năm 1977, à và ông B không còn chung sống v i nhau. ng B c vợ khác và sinh sống tại Đắk Lắk. Vì vậy, à yêu cầu tuyên ố giữa bà và ông B chấm dứt hôn nhân thực tế từ năm 1980.

Về con chung: à và ông B c 01 con chung tên Phan Thị C1 - sinh năm 1977. Từ năm 1978 đến khi chị C1 thành niên, à là người chăm s c, nuôi dưỡng con, tổng chi ph nuôi con hơn 1.200.000.000 đồng. à yêu cầu Tòa án uộc ông B phải trả cho bà ½ chi ph cấp dưỡng cho con từ năm 1978 đến năm 1995 v i số tiền là 648.000.000 đồng. Đây là chi ph à đã ỏ ra trong thời gian nuôi chị C1 từ nhỏ đến khi chị C1 đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, à Nguyễn Thị M và người đại diện theo ủy quyền về tài sản của bà M trình bày:

Thửa 516 là tài sản do à M và ông B khai hoang an đầu chỉ có 50m2. Sau khi ông B lên T, bà M tiếp tục khai hoang nên diện t ch đất m i tăng thành 1.513,4m2 như hiện nay. Quá trình sử dụng đất, bà M đã cùng v i vợ chồng chị C1 đổ đất nâng nền, cải tạo lại đất, làm lại hàng rào bằng ê tông. Năm 1993, Nhà nư c đã chia thửa đất này th o Nghị định 64/CP cho à M và chị C1, thửa đất nêu trên không còn là tài sản chung của à M và ông B. Vì vậy, à M không đồng chia đất cho ông B ngôi nhà trên đất là do chị C1 và anh Bùi C xây dựng.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên uan à chị Phan Thị C1 trình bày:

Chị là con của ông Phan Tiến B và bà Nguyễn Thị M. Từ nhỏ đến khi chị 18 tuổi, chị đều sống v i bà M. Hiện tại chị đã c công việc làm, có chồng con và vẫn còn sống cùng v i bà M. Ngôi nhà trên thửa 516 là do vợ chồng chị xây dựng. Chị không đồng chia thửa 516 cho ông B vì Nhà nư c chỉ cấp thửa đất này cho chị và m chị. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng chị cùng bà M c đổ đất nâng toàn bộ khu vườn nhiều lần từ năm 2006 đến năm 2016, chị đề nghị Tòa án xem xét công sức này cho bà M.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Bùi C tr nh ày: Anh thống nhất v i kiến của à M và chị C1. Ngôi nhà trên thửa 516 là do vợ chồng anh xây dựng. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng anh cùng bà M c đổ đất nâng toàn bộ khu vườn nhiều lần từ năm 2006 đến năm 2016, anh đề nghị Tòa án xem xét công sức này cho bà M.

Bản án số 52/2023/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 1168/2023/QĐ- SCBSBA ngày 06/10/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Đ đã uyết định:

1 Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị M được ly hôn ông Phan Tiến B.

2. Về cấp dưỡng cho con: Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc đòi nguyên đơn phải trả 648.000.000 đồng tiền cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, xác định trong thửa đất số 516, tờ bản đồ số 27, xã P, diện tích 1.513,4m2, chỉ có 200m2 đất ở là tài sản chung của ông Phan Tiến B và bà Nguyễn Thị M; chia cho bà M được nhận toàn bộ 200m2 đất ở tại thửa đất này, bà M c nghĩa vụ thối lại cho ông Phan Tiến B 35.000.000 đồng giá trị quyền sử dụng đất.

Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu được chia đất trong phần diện tích 1.313,4m2 đất trồng cây hàng năm còn lại tại thửa đất 516, tờ bản đồ số 27, xã P.

4. Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/10/2023, bà Nguyễn Thị M kháng cáo đối v i Bản án số 52/2023/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Đ, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Sửa bản án sơ thẩm th o hư ng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Tiến B về việc chia tài sản chung đối v i thửa 516; tuyên bố chấm dứt tình trạng hôn nhân giữa bà v i ông Phan Tiến B từ năm 1980 uộc ông Phan Tiến B phải trả ½ chi phí nuôi con từ năm 1980 đến năm 1995.

Ngày 12/10/2023, ông Phan Tiến B kháng cáo đối v i Bản án số 52/2023/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Đ, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Hủy một phần bản án sơ thẩm về phần phân chia tài sản chung.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư k phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các uy định của ộ luật tố tụng dân sự về thủ tục ắt đầu phiên tòa và thủ tục xét xử phúc thẩm. Nguyên đơn ị đơn người c uyền lợi, nghĩa vụ liên uan người ảo vệ uyền và lợi ch hợp pháp cho đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ uyền và nghĩa vụ tố tụng th o uy định tại các Điều 70,71,72,73,75,76 Bộ luật tố tụng dân dự. Đối v i những người c uyền lợi, nghĩa vụ liên uan gồm: ng K, ông P, bà H1 chưa thực hiện đúng uyền và nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại phiên tòa không c l do.

Về nội dung: Sau khi phân t ch đánh giá toàn ộ tài liệu, chứng cứ c trong hồ sơ vụ án và diễn iến công khai tại phiên tòa, xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã c vi phạm trong việc thu thập chứng cứ và chứng minh, những vi phạm này tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục ổ sung được. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hủy ản án sơ thẩm số 52/2023/HNGĐ-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Đ. Vì đề nghị hủy án nên không x m xét kháng cáo của nguyên đơn, ị đơn. Đương sự không phải chịu án ph phúc thẩm. Về án ph sơ thẩm và chi ph tố tụng sẽ được x m xét lại khi giải uyết lại vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Ngày 27/9/2023, Tòa án nhân dân thị xã Đ xét xử vụ án. Ngày 09 và ngày 12/10/2023, bị đơn à Nguyễn Thị M, nguyên đơn ông Phan Tiến B c đơn kháng cáo. Việc kháng cáo của đương sự được thực hiện đúng trình tự, thủ tục và đúng hạn th o uy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên được chấp nhận.

[1.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Văn Minh K, Phạm Thị H1, Nguyễn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa; Ủy ban nhân dân thị xã Đ c đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[1.3] Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ th o đơn yêu cầu độc lập ngày 24/8/2020 và đơn yêu cầu độc lập bổ sung ngày 16/11/2020 của ông Phan Tiến B trong vụ án dân sự thụ lý số 92/2020/TLST-DS ngày 14/7/2020, về việc “Tranh chấp về chia thừa kế quyền sử dụng đất” để ban hành Thông báo về việc thụ lý vụ án số 147/TB-TLVA ngày 11/10/2022 mà không yêu cầu ông B làm lại đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện là chưa đúng th o uy định tại Điều 89 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.4] Tại giấy ủy quyền ngày 22/11/2022 (bút lục số 121) bà Nguyễn Thị M ủy quyền cho ông Nguyễn Chí H thay mặt bà M toàn quyền quyết định tại tòa án các cấp,thực hiện quyền và nghĩa vụ của bà M v i tư cách là người khởi kiện. Th o uy định tại khoản 4 Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đối v i việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Lẽ ra, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án cấp sơ thẩm cần đề nghị bà M thực hiện lại thủ tục ủy quyền th o uy định tại khoản 4 Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự, trong đ phải xác định rõ: Đối v i yêu cầu được ly hôn và yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng nuôi con, đây là uyền nhân thân nên không thể ủy quyền, trừ trường hợp uy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình. à M chỉ được ủy quyền đối v i yêu cầu chia tài sản chung.

Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, theo Hợp đồng ủy quyền ngày 18/5/2024, ông Phan Tiến B ủy quyền cho ông Phan Tấn T và ông Phan Thành T1 nhưng nội dung ủy quyền vẫn không đúng th o khoản 4 Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp phúc thẩm đã c Thông báo số 315/TA –DS ngày 22/5/2024 yêu cầu ông B, bà M thực hiện lại thủ tục ủy quyền. Nhưng cho đến nay ông B vẫn không sửa đổi nội dung ủy quyền th o Thông áo và cũng không c đơn trình bày ý kiến về việc có ủy quyền cho ông T, ông T1 nữa hay không. Đến tại phiên tòa phúc thẩm, ông B có ý kiến không ủy quyền cho ông T, ông T1 nữa. Do đ , Hội đồng xét xử phúc thẩm không xác định ông T, ông T1 tham gia tố tụng v i tư cách là người đại diện theo ủy quyền của ông B. Ngày 06/6/2024, bà Nguyễn Thị M làm lại giấy ủy quyền, xác định ông Nguyễn Chí H là người đại diện theo ủy quyền của bà M về việc chia tài sản chung nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định ông Nguyễn Chí H là người đại diện theo ủy quyền của bà M đối v i phần tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Tại Đơn yêu cầu độc lập ngày 24/8/2020, Đơn yêu cầu độc lập bổ sung ngày 16/11/2020, các văn ản trình bày ý kiến và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Phan Tiến B trình ày: Năm 1974, ông và à Nguyễn Thị M tự nguyện chung sống v i nhau, không c đăng k kết hôn. Đến năm 1979, ông được điều động lên Đắc Lắk công tác và đã chung sống v i bà H2 Êban từ năm 1980 đến nay, giữa ông và bà M đã không còn chung sống v i nhau từ năm 1980.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn à Nguyễn Thị M trình ày: à và ông B tự nguyện sống chung v i nhau từ năm 1974 đến năm 1977. Sau năm 1977, à và ông B không còn chung sống v i nhau. ng B c vợ khác và sinh sống tại tỉnh Đắk Lắk.

Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai trên của ông B, bà M mà không tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của ông B, bà M để xác định quan hệ hôn nhân giữa ông B và bà M bắt đầu chung sống như vợ chồng từ thời điểm nào; ông B, bà M c đăng k kết hôn hay không, nhưng đã nhận định: “ ng Phan Tiến B và à Nguyễn Thị M tự nguyện kết hôn vào năm 1974, nhưng không đăng k kết hôn. Th o uy định tại Nghị quyết 35/2000/QH10 quan hệ vợ chồng xác lập trư c ngày 03/01/1987 nếu chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến kh ch đăng k kết hôn, mà không bắt buộc phải đăng k do vậy quan hệ hôn nhân giữa ông B và bà M là hoàn toàn hợp pháp được pháp luật thừa nhận” là còn thiếu sót về thu thập chứng cứ. [2.2] Về cấp dưỡng nuôi con:

Bà M yêu cầu ông B phải trả 1/2 tiền cấp dưỡng nuôi con từ năm 1978 đến năm 1995 v i số tiền là 648.000.000 đồng, đây là chi ph mà à M cho rằng à đã ỏ ra trong thời gian nuôi dưỡng chị Phan Thị C1 từ nhỏ đến khi chị C1 đủ 18 tuổi. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ là giấy khai sinh của chị C1 để xác định mối quan hệ nhân thân cha, m , con giữa ông B, bà M, chị C1; thời điểm chị C1 sinh ra có trong thời kỳ hôn nhân chung sống như vợ chồng của ông B, bà M hay không, vào thời điểm nào thì chị C1 đủ 18 tuổi. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của các đương sự, chị C1 là con chung của ông B, bà M và chị C1 sinh năm 1977 để từ đ nhận định: “…hiện tại chị C1 đã thành niên nhưng chị đã c công việc làm, có chồng con nên việc bà M đòi cấp dưỡng cho chị C1 là không phù hợp. Còn việc bà M đòi tiền cấp dưỡng nuôi con trư c đây, xét thấy thời gian bà yêu cầu cấp dưỡng, giữa bà và ông B vẫn còn tồn tại hôn nhân, giữa hai ên cũng không c thỏa thuận nào riêng về việc ông B phải cấp dưỡng nên không c cơ sở để buộc ông B phải thối lại cho bà M 648.000.000 đồng tiền cấp dưỡng nuôi con” là còn thiếu sót về thu thập chứng cứ.

[2.3] Về tài sản chung:

Tại Công văn số 26/UBND ngày 08/01/2021 của Ủy ban nhân dân thị xã Đ về việc cung cấp thông tin, tài liệu cho Tòa án nhân dân thị xã Đ có nội dung:

“Qua kiểm tra hồ sơ địa ch nh được lập năm 2006, đối chiếu v i hình thể thửa đất trên bản lưu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AH 715019, số vào sổ H.07049 do UBND huyện Đ cấp ngày 08/11/2006 thì bà Nguyễn Thị M đang sử dụng hợp pháp tại thửa đất số 516, tờ bản đồ số 27, xã P v i diện tích 1.417m2 đất ONT 200m2, đất BHK 1.217m2). Ngoài ra, bản đồ địa ch nh đo đạc năm 2006 đã được số hóa nên diện t ch tương đối chính xác.

Phần diện t ch tăng thêm 96,4m2 không nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất; cũng chưa được đăng k đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đủ cơ sở pháp l để xác định vị tr , nguyên nhân tăng so v i phần diện tích mà Tòa án cung cấp.

Từ các cơ sở nêu trên, Ủy ban nhân dân thị xã Đ đề nghị Tòa án xem xét xác định diện tích thửa đất này không bao gồm các phần diện t ch đất tăng thêm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được UBND huyện Đ cấp ngày 08/11/2006”.

Tại Bản án sơ thẩm số 52/2023/HNGĐ- ST ngày 27/9/2023 đã nhận định: “Về tài sản chung: Thửa đất 516, tờ ản đồ số 27 xã P được cấp cho hộ bà Nguyễn Thị M có diện tích thực tế là 1.513,4m2, trong đ c 200m2 đất ở. Diện tích thửa đất tăng 96,4m2 so v i giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2006. Nguyên nhân tăng là do uá trình sử dụng đất, bà M làm hàng rào bằng cây xanh, sau năm 2006 à M phá hàng rào cây xanh, xây dựng lại hàng rào bằng bê tông. Phần diện t ch tăng thêm các hộ liền kề không tranh chấp, là khách quan nên Hội đồng xét xử xác định hộ bà M đang uản lý, sử dụng 1.513,4m2” để quyết định:

“Về tài sản chung: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, xác định trong thửa đất số 516, tờ bản đồ số 27, xã P, diện tích 1.513,4m2, chỉ có 200m2 đất ở là tài sản chung của ông Phan Tiến B và bà Nguyễn Thị M; chia cho bà M được nhận toàn bộ 200m2 đất ở tại thửa đất này, bà M c nghĩa vụ thối lại cho ông Phan Tiến B 35.000.000 đồng a mươi lăm triệu đồng) giá trị quyền sử dụng đất.

Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu được chia đất trong phần diện tích 1.313,4m2 đất trồng cây hàng năm còn lại tại thửa đất 516, tờ bản đồ số 27 xã P”.

Giai đoạn xét xử phúc thẩm, vào buổi làm việc ngày 16/5/2024, UBND thị xã Đ đã cung cấp thông tin: “Qua áp ranh ản đồ đo vẽ do Công ty Cổ phần Đ – Chi nhánh Q thực hiện ngày 21/8/2020 so v i bản đồ địa ch nh năm 2006 (bản đồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối v i thửa đất số 516, tờ bản đồ số 27, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi có những thay đổi như sau: Về ranh gi i: Cạnh ph a Đông tiếp giáp v i thửa đất số 525 và 486 (biến động tăng cạnh phía Bắc tiếp giáp thửa 495 (biến động giảm); cạnh phía Nam có biến động tăng phần đường giao thông; cạnh phía Tây sử dụng ổn định. Đại diện Ủy ban nhân dân xã P, Văn phòng đăng k đất đai tỉnh Q – Chi nhánh thị xã Đ và Phòng T3 có ý kiến: Đề nghị Toà án xác minh đối v i việc biến động tăng, giảm đối v i các thửa đất liền kề, trường hợp các hộ lân cận có ranh gi i sử dụng ổn định, rõ ràng, không tranh chấp, quá trình sử dụng không có chuyển quyền, hoán đổi thì đề nghị xác định quyền sử dụng đất theo ranh gi i thực tế đang sử dụng. Đối v i sự biến động tăng ở cạnh phía Nam của thửa 516, đề nghị không xác định phần diện t ch tăng này vào diện tích thửa 516, diện tích này thuộc phần đường giao thông do Nhà nư c quản l ...” Th o Sơ đồ địa chính của thửa đất 516, tờ bản đồ số 27, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (viết tắt là thửa 516) do Công ty TNHH T4 bản đồ Nhật T2 cung cấp cho Toà án th o Công văn số 354/TA-DS ngày 05/6/2024 thì thửa 516 được gi i hạn từ điểm số 01 đến điểm số 19-1 có diện tích là 1.513,4m2 (áp ranh theo giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích là 1.417,3m2), biến động diện t ch tăng là 96,1m2; có vị tr : Ph a Đông giáp thửa đất số 525 và thửa đất số 486 Ph a Tây giáp đường đất; Phía Bắc giáp thửa đất số 495; phía Nam giáp đường bê tông. Cụ thể:

- Ph a Đông thửa 516 lấn 11,8m2 vào thửa 486 của bà Phạm Thị H1 và lấn 61m2 vào thửa đất số 525 của ông Văn Minh K.

- Phía Bắc thửa 516 lấn 1,5m2 vào thửa đất số 495 của ông Nguyễn P; mặt khác thửa đất số 495 lấn 5,5m2 vào thửa 516.

- Phía Nam thửa 516 lấn phần đường bê tông của Nhà nư c có diện tích 31,4m2.

- Phía Tây thửa 516 chừa ngoài đường là 4,1m2.

Tại Biên bản làm việc ngày 26/7/2024 và tại phiên tòa bà M và người đại diện theo ủy quyền về tài sản của bà M trình bày: Phần diện t ch tăng thêm thuộc phần đường ê tông do Nhà nư c quản lý thì bà M đồng ý trả lại cho Nhà nư c đối v i phần diện tích lấn thuộc những thửa đất khác đề nghị Toà án thông báo cho những người sử dụng liền kề gồm ông Văn Minh K, ông Nguyễn P và bà Phạm Thị H1 biết cụ thể diện tích họ đã lấn vào thửa đất số 516 là bao nhiêu diện tích, trên cở sở đ để họ trình bày ý kiến về vấn đề này và có yêu cầu đưa họ tham gia tố tụng ở cấp phúc thẩm hay không vì cấp sơ thẩm họ không tham gia vào vụ án này trường hợp những người này không c văn ản trình bày thì đề nghị Toà án căn cứ vào uy định của pháp luật để giải quyết vụ án; ranh gi i của thửa đất số 516 đã c trụ ê tông và kéo lư i kiên cố, ổn định, trường hợp những người này yêu cầu trả lại phần diện t ch đã lấn thì bà M đồng ý trả lại cho họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Bùi C và chị Phan Thị C1 thống nhất v i ý kiến trình bày của bị đơn à M, không bổ sung gì thêm. Nguyên đơn ông Phan Tiến B và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông B trình ày: Th o đo đạc thực tế thửa 516 có sự biến động tăng là do c sự xâm lấn qua lại của một số người ở gần như ông P, ông K, bà H1; có phần diện tích chừa đường và lấn đường nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ, cũng như chưa đưa các hộ liên kề thửa 516 vào tham gia tố tụng nên những người này có ý kiến gì hay yêu cầu như thế nào thì chưa rõ, đồng thời làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông B.

Diện tích thửa 516 có sự biến động tăng th o các nguyên nhân trên nhưng cấp sơ thẩm không đưa những người đang uản lý sử dụng các thửa đất 486, 525, 495 giáp ranh v i thửa 516 đang tranh chấp và UBND thị xã Đ vào tham gia tố tụng v i tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên uan đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Mặc dù, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã c thông báo bổ sung người tham gia tố tụng, triệu tập ông Văn Minh K, ông Nguyễn P và bà Phạm Thị H1 đến làm việc và tham gia phiên tòa nhưng các ông, bà trên vẫn không có ý kiến trình ày, không đến Tòa án cấp phúc thẩm để làm việc, cũng như vắng mặt tại các phiên tòa xét xử phúc thẩm mà không có lý do.

Xét thấy, việc thu thập chứng cứ và chứng minh của Tòa án cấp sơ thẩm là thiếu sót; bên cạnh đ , cấp sơ thẩm có những vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa triệt để, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự như đã nêu trên mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đ , Hội đồng xét xử phúc thẩm cần hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thị xã Đ để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Do hủy bản án sơ thẩm, nên cấp phúc thẩm không xét nội dung kháng cáo của ông Phan Tiến B và bà Nguyễn Thị M.

[3] Về án phí: Vì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm nên ông Phan Tiến B, bà Nguyễn Thị M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[4] Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm, các chi phí tố tụng khác được xem xét lại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa là c căn cứ, phù hợp v i nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 29 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy an thường vụ Quốc hội uy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2023/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

2. Về chi phí tố tụng khác và án phí dân sự sơ thẩm sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phan Tiến B và bà Nguyễn Thị M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp chia tài sản chung và đòi tiền cấp dưỡng nuôi con số 14/2024/HNGĐ-PT

Số hiệu:14/2024/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;