Bản án về ly hôn số 99/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 101/2021/TLST-HNGĐ ngày 01/4/2021 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐXX ST- HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09/12/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thi Thanh Y, sinh năm 1974. Địa chỉ: Đường T, tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Ông Kiều Công N, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

3. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

3.1. Vợ chồng ông Trần Văn C, sinh năm 1975, bà Đặng Thị Thanh T, sinh năm 1976. Địa chỉ: TDP T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

3.2. Vợ chồng ông Nguyễn Duy G, sinh năm 1974, bà Hà Thị P, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn H, xã N, huyện L tỉnh Lâm Đồng.

3.3. Vợ chồng ông Vương Đắc T, sinh năm 1969, bà Vũ Thị Mai L, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

3.4. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

(Bà Y có mặt; các đương sự còn lại vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn bà Phạm Thị Thanh Y trình bày:

Bà và ông N chung sống với nhau vào năm 1996, đến năm 2003 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu 03 năm, có tổ chức lễ cưới, hỏi theo phong tục của địa phương. Quá trình chung sống vợ chồng bà không hòa thuận, hạnh phúc thường hay phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông N ham mê cờ bạc, không lo làm ăn, bỏ bê gia đình, nhiều lần uống rượu chửi bới, xúc phạm, đánh đập bà, vợ chồng có nhiều sự khác biệt, bất đồng về tính cách, lối sống và quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau không có hạnh phúc. Hai bên gia đình đã hàn gắn tình cảm cho vợ chồng bà nhiều lần nhưng không thành. Do không thể chung sống được nên tháng 5/2020 bà đã chuyển ra ngoài sinh sống nhưng ông N vẫn đến nơi làm việc của bà cản trở công việc làm ăn, sinh sống. Trong thời gian ly thân hai bên không có biện pháp hàn gắn tình cảm. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông N, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn trầm T, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Kiều Công N.

Về con chung: Bà Phạm Thị Thanh Y xác định có 03 con chung là Kiều Thị Thành N1, sinh năm 1998, Kiều Bình N2, sinh năm 2000 và Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007. Hiện nay cháu N1 và cháu N2 đã trưởng thành và phát triển bình thường nên bà không yêu cầu. Đối với cháu Q, khi ly hôn bà đồng ý giao con chung Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007 cho ông N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Thanh Y xác định vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà Phạm Thị Thanh Y xác định quá trình chung sống vợ chồng bà có các khoản nợ chung như sau: Nợ ông Nguyễn Hải Đ số tiền 80.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền 200.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Nguyễn Duy G (tên thường gọi là T) bà Hà Thị P số tiền 180.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền 100.000.000đồng; nợ bà Nguyễn Thị X số tiền 30.000.000đồng. Ngoài ra, vợ chồng bà không còn nợ ai khác. Bà xác định đây là khoản nợ chung trong quá trình chung sống. Bà đề nghị bà và ông N mỗi người sẽ có trách nhiệm trả ½ số nợ trên cho các chủ nợ này.

Tại bàn tự khai bị đơn ông Kiều Công N trình bày:

Ông chung sống với Bà Y và kết hôn với Bà Y như Bà Y trình bày là đúng. Quá trình vợ chồng ông chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 5/2020 thì vợ ông bỏ nhà ra thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà thuê quán bán hàng, nên hai bên không gặp nhau, không sống chung nhà, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Ông xác định giữa hai vợ chồng ông không có mâu thuẫn, ông vẫn còn yêu tình cảm với Bà Y. Hai bên gia đình đã hàn gắn tình cảm cho hai vợ chồng nhưng không thành. Trong thời gian ly thân ông vẫn liên lạc với Bà Y để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Nay Bà Y yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý ly hôn với Bà Y vì ông xác định vẫn còn tình cảm với Bà Y.

Về con chung: Ông N xác định vợ chồng ông có 03 con chung là Kiều Thị Thành N1, sinh năm 1998; Kiều Bình N2, sinh năm 2000 và Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007. Hiện nay cháu N1 và cháu N2 đã trưởng thành và phát triển bình thường, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con chung Kiều Công Nhật Quang đang sống cùng ông. Khi ly hôn để thuận lợi, không ảnh hưởng đến việc học tập ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Kiều Công Nhật Q, ông không yêu cầu Bà Y cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Ông N xác định vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông N xác định trong quá trình chung sống vợ chồng ông có những khoản nợ chung như Bà Y trình bày là đúng. Cụ thể: Nợ ông Nguyễn Hải Đ số tiền 80.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền 200.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Nguyễn Duy G (tên thường gọi là T) bà Hà Thị P số tiền 180.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền 100.000.000đồng và nợ bà Nguyễn Thị X số tiền 30.000.000đồng. Ngoài ra, vợ chồng ông không còn khoản nợ chung nào khác. Ông xác định đây là khoản nợ chung của vợ chồng, ông đồng ý mỗi người sẽ có có trách nhiệm nghĩa vụ trả ½ cho các khoản nợ trên.

Ngoài ra ông N không có ý kiến, không có yêu cầu nào khác.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P trình bày: Vợ chồng ông bà có làm ăn, mua bán phân và cà phê nhân với vợ chồng ông N, Bà Y. Theo đó vợ chồng ông bà cùng ông N, Bà Y đã chốt sổ đến thời điểm ngày 30/12/2020 thì vợ chồng ông N, Bà Y còn nợ vợ chồng ông bà số tiền là 180.000.000đồng. Nay vợ chồng ông N, Bà Y ly hôn thì vợ chồng ông bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, Bà Y phải trả cho vợ chồng ông bà số tiền nợ gốc là 180.000.000đồng.

Ngoài ra, vợ chồng ông bà không có yêu cầu nào khác.

- Vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L trình bày: Ngày 27/12/2019, vợ chồng ông N, Bà Y có vay của vợ chồng ông bà số tiền là 100.000.000đồng. Hai bên không thoả thuận lãi suất, thời hạn trả nợ là cuối năm 2020. Khi vay hai bên có viết giấy vay tiền. Đến hẹn trả nợ vợ chồng ông bà có đòi nhiều lần nhung ông N, Bà Y chua trả cho vợ chồng ông bà. Nay vợ chồng ông N, Bà Y ly hôn thì vợ chồng ông bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, Bà Y phải trả cho vợ chồng ông bà số tiền nợ gốc là 100.000.000đồng. Ngoài ra, vợ chồng ông bà không có yêu cầu nào khác.

- Vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T trình bày: Ngày 25/3/2020, vợ chồng Bà Y, ông N có vay của vợ chồng ông bà số tiền 200.000.000đồng, lãi suất thỏa thuận theo lãi ngân hàng. Thời hạn vay là 02 tháng kể từ ngày vay. Tuy nhiên đến nay vợ chồng ông N, Bà Y chua trả cho vợ chồng ông bà. Nay vợ chồng ông N, Bà Y ly hôn thì vợ chồng ông, bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, Bà Y phải trả cho vợ chồng ông bà số tiền nợ gốc là 200.000.000đồng. Ngoài ra, vợ chồng ông bà không có yêu cầu nào khác.

- Bà Nguyễn Thị X trình bày: Ngày 15/7/2020, vợ chồng ông N, Bà Y có vay bà số tiền 30.000.000đồng. Khi vay hai bên không thoả thuận lãi suất. Mục đích vay để mua phân bón cà phê, hẹn đến cuối năm 2020 sẽ trả. Đến hẹn bà có yêu cầu ông N, Bà Y trả nhiều lần nhưng vợ chồng ông N, Bà Y không trả tiền cho bà. Nay vợ chồng ông N, Bà Y ly hôn thì bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, Bà Y phải trả cho bà số tiền nợ gốc là 30.000.000đồng. Ngoài ra, bà không có yêu cầu nào khác.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Công, bà Thảo và bà Xuân vắng mặt nên việc hòa giải không thành.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của Bà Y, xử cho Bà Y được ly hôn với ông N. về con chung giao cháu Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007 cho ông N có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con. Ông N không yêu cầu Bà Y phải cấp dưỡng nuôi con chung, nên không xem xét. Về tài sản chung Bà Y, ông N xác định tự thỏa thuận giải quyết, nên không xem xét. về nợ chung: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc Bà Y, ông N có trách nhiệm trả nợ cho vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P số tiền gốc là 180.000.000đồng/2 = 90.000.000đồng; vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền gốc là 100.000.000đồng/2= 50.000.000đồng; vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền gốc là 200.000.000đồng/2 = 100.000.000đồng và bà Nguyễn Thị X số tiền gốc là 30.000.000đồng/2 = 15.000.000đồng.

Đối với khoản nợ chung vợ chồng Bà Y, ông N còn nợ 80.000.000đồng của ông Nguyễn Hải Đ. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo cho ông Nguyễn Hải Được tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng ông Được có đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án, nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc Bà Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Bà Y, ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp cho vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T; vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P, vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L và bà Nguyễn Thị X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Phạm Thị Thanh Y có mặt, bị đơn ông Kiều Công N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T; vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P, vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L và bà Nguyễn Thị X vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 cần xem xét xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Y và ông N chung sống với nhau năm 1996 trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểm là 3 năm đến năm 2003 Bà Y, ông N đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 14/3/2003 nên quan hệ hôn nhân của Bà Y, ông N là hợp pháp.

Tại phiên tòa, Bà Y vẫn xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài không còn khả năng cải thiện nên bà vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông Kiều Công N, còn ông N vắng mặt nhưng quá trình giải quyết vụ án ông N xác định quá trình chung sống vợ chồng ông không có mâu thuẫn, ông vẫn yêu thương vợ con nên ông không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Y. Trong thời gian ly thân ông N không có biện pháp nào để cải thiện quan hệ tình cảm vợ chồng. Theo kết quả xác minh chính quyền địa phương nơi cư trú của bà Y và ông N thì được biết vợ chồng ông N Bà Y có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng ông bà đã ly thân không còn chung sống với nhau. Xét thấy, do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn khả năng để cải thiện tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng Bà Y, ông N đã sống ly thân từ tháng 5/2020 đến nay. Vì vậy, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự nên căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận đơn xin ly hôn của Bà Y xử cho Bà Y và ông N được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Bà Y và ông N có 03 con chung là cháu Kiều Thị Thành N1, sinh năm 1998; Kiều Bình N2, sinh năm 2000 và Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007. Khi ly hôn ông N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quang, ông N không yêu cầu Bà Y phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, con chung là Kiều Thị Thành N1, sinh năm 1998; Kiều Bình N2, sinh năm 2000 đã trưởng thành và phát triển bình thường nên Tòa án không đặt ra giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án cháu Q có nguyện vọng được ở cùng bố khi bố, mẹ ly hôn. Đồng thời, trên thực tế thì từ khi Bà Y, ông N sống ly thân cho đến nay cháu Q vẫn ở cùng ông N. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần giao con là Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007 cho ông N có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của cháu Q là phù hợp. về việc cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà Y và ông N xác định vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án Bà Y, ông N đều xác định có những khoản nợ chung như sau:

Nợ ông Nguyễn Hải Đ số tiền gốc là 80.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P số tiền gốc là 180.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền gốc là 100.000.000đồng; nợ vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền gốc là 200.000.000đồng và nợ bà Nguyễn Thị X số tiền gốc là 30.000.000đồng. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và đã thụ lý yêu cầu độc lập. Riêng ông Được không yêu cầu giải quyết về khoản nợ chung trong vụ án này.

Bà Y, ông N đồng ý mỗi người sẽ có trách nhiệm trả Vi số nợ trên cho những chủ nợ đã yêu cầu.

Xét thấy, khoản nợ vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P số tiền gốc là 180.000.000đồng theo giấy mua phân bón, gạo ghi ngày 09/12/2017 - 18/12/2020 AL; khoản nợ vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền gốc là 100.000.000đồng theo giấy vay tiền có chữ ký và chữ viết của bà Phạm Thị Thanh Y, ông Kiều Công N; khoản nợ vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền gốc là 200.000.000đồng theo hợp đồng vay tiền lập ngày 25/3/2020 có chữ ký và chữ viết của Bà Y, ông N và khoản nợ bà Nguyễn Thị X số tiền gốc là 30.000.000đồng theo giấy vay tiền lập ngày 17/5/2020 có chữ ký và chữ viết của bà Phạm Thị Thanh Y. Bà Y, ông N đều xác định các khoản nợ trên là đúng, ông N, Bà Y đồng ý mỗi người phải có nghĩa vụ trả một nửa trong các khoản nợ này, đây là những khoản nợ là tiền vay, số tiền mua phân bón, vật dụng thiết yếu của Bà Y và ông N trong thời kỳ hôn nhân nên những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu Bà Y và ông N phải có trách nhiệm trả số tiền trên là hoàn toàn phù hợp. Vì vậy, cần buộc Bà Y, ông N mỗi người phải có trách nhiệm trả cho: vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P /4 số tiền gốc là 180.000.000đồng/2 = 90.000.000đồng; vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L ½ số tiền gốc là 100.000.000đồng/2 = 50.000.000đồng; vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T ½ số tiền gốc là 200.000.000đồng/2 = 100.000.000đồng và bà Nguyễn Thị X ½ số tiền gốc là 30.000.000đồng/2 =15.000.000đồng. Như vậy, tông số tiền Bà Y phải trả nợ là 255.000.000đồng và ông N phải trả nợ là 255.000.000đồng.

Đối với số nợ của ông Nguyễn Hải Đ là 80.000.000đồng thì Tòa án đã tiến hành xác minh làm việc với ông Được thì ông Được có đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên không đặt ra để xem xét giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp, có đơn khởi kiện thì sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[6] Về án phí:

Bà Y phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn và Bà Y phải chịu 12.750.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ (255.000.000đồng x 5% = 12.750.000đồng).

Ông N phải chịu 12.750.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ (255.000.000đồng x 5% = 12.750.000đồng) theo quy định.

Tuy nhiên, Bà Y và ông N có đơn xin miễn, giảm tiền án phí, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Nam Hà, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xác nhận Bà Y, ông N có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên cần giảm cho Bà Y, ông N 50% án phí dân sự sơ thẩm (12.750.000đồng/2 = 6.375.000đồng).

Tổng số tiền án phí sơ thẩm Bà Y phải chịu là 6.675.000đồng.

Tổng số tiền án phí sơ thẩm ông N phải chịu là 6.375.000đồng.

Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp cho vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T; vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị Phương; vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L và bà Nguyễn Thị X.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 27; Điều 30; Điều 37; Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; khoản 2, Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 2 Điều 357; Điều 430, Điều 440; Điều 463; Điều 466 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 203; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

1/ Chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của Phạm Thị Thanh Y, xử cho bà Phạm Thị Thanh Y và ông Kiều Công N được ly hôn.

2/ Về con chung: Giao con chung là Kiều Công Nhật Q, sinh ngày 22/11/2007 cho ông Kiều Công N có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con. Bà Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3/ Về nợ chung:

Buộc bà Phạm Thị Thanh Y phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P số tiền 90.000.000đồng; trả nợ cho vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền 50.000.000đồng; trả nợ cho vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền 100.000.000đồng và trả nợ cho bà Nguyễn Thị X số tiền là 15.000.000đồng. Tổng cộng là 255.000.000đồng.

Buộc ông Kiều Công N phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P số tiền 90.000.000đồng; vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền 50.000.000đồng; vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền 100.000.000đồng và bà Nguyễn Thị X số tiền là 15.000.000đồng. Tổng cộng là 255.000.000đồng.

4/ Về án phí:

Bà Phạm Thị Thanh Y phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn và 6.375.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tổng số tiền án phí sơ thẩm Bà Y phải chịu là 6.675.000đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Phạm Thị Thanh Y đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0015210 ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà. Bà Phạm Thị Thanh Y còn phải nộp 6.375.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Kiều Công N phải chịu 6.375.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho vợ chồng ông Trần Văn C, bà Đặng Thị Thanh T số tiền tạm ứng án phí là 5.000.000đồng mà ông Công, bà Thảo đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002648 ngày 21/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

Hoàn trả cho vợ chồng ông Nguyễn Duy G, bà Hà Thị P số tiền tạm ứng án phí là 4.500.000đồng mà ông Giáp, bà Phương đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002650 ngày 21/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà.

Hoàn trả cho vợ chồng ông Vương Đắc T, bà Vũ Thị Mai L số tiền tạm ứng án phí là 2.500.000đồng mà ông Thắng, bà Lan đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002649 ngày 21/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị X số tiền tạm ứng án phí là 750.000đồng mà bà Xuân đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002689 ngày 03/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

5/ Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 30/12/2021) nguyên đơn có quyền kháng cáo. Riêng bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm./.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 99/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:99/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;