Bản án về ly hôn số 98/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ T, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 98/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 03 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Phú T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 203/2021/TLST-HNGĐ ngày 29/04/2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 08 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị L, sinh năm 1992. HKTT: Ấp Phú H, thị trấn Chợ V, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

Hiện trú tại: Số 1092/12B, khu phố 1, tổ 16, phường Bình Ch, quận Thủ Đ, Thành Phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1988.

Trú tại: Ấp Phú H, thi trấn Chợ V, huyện Phú T, tỉnh An Giang. (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 23/02/2021 nguyên đơn bà Hồ Thị L trình bày:

Bà L và ông H sau thời gian tìm hiểu và được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới theo nghi thức truyền thống, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An H, huyện Q L, tỉnh N A. Giấy chứng nhận kết hôn số 29, quyển số 02 ngày 12 tháng 4 năm 2013, thời gian đầu chung sống hạnh phúc về sau phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không tôn trọng nhau, trong thời gian sống chung, vợ chồng thường xuyên cải nhau về những chuyện vặt trong gia đình, mâu thuẫn kéo dài, đời sống tình cảm ngày càng trầm trọng. Cuối năm 2019 Bà L bỏ nhà đi, vợ chồng ly thân, từ lúc ly thân đến nay ông H không điện thoại hay tới lui thăm hỏi hay có ý chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay nhận thấy tình cảm không còn Bà L yêu cầu ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà L và ông H có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Diễm H, sinh ngày 28/5/2013 và Nguyễn Thị Phương H, sinh ngày 09/10/2016 con chung hiện đang sống với vợ chồng, khi ly hôn Bà L yêu cầu được nuôi con chung đến trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có. Ngày 29/4/2021 bà Hồ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt và có bản tự khai trình bày do hai con chung đang ở với ông H nên đồng ý giao con chung cho ông H nuôi dưỡng, không yêu cầu nuôi con và không cấp dưỡng.

Ông Nguyễn Văn H vắng mặt từ khi Tòa án thụ lý vụ án nên không có ý kiến trình bày.

Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân được bà Phan Thị Ánh Hồng – Trưởng ấp Phú H, thị trấn Chợ V cho biết: Ông Nguyễn Văn H là con của ông Lẹ có đăng ký thường trú và sinh sống tại ấp Phú H, bà Hồ Thị L trước đây có sinh sống tại ấp Phú H, khoản hai, ba năm nay thì không thấy Bà L ở chung với ông H tại ấp Phú H nữa. Trong quá trình sinh sống vợ chồng ông H có hai người con, đang sống với ông H tại Chợ Vàm.

Bà Nguyễn Bé Ba cho biết: Ông Nguyễn Văn H là con ruột, bà Hồ Thị L là con dâu của bà, H hiện tại đi làm công ty nhưng ở đâu thì bà không rõ, cách đây hai năm L đem hai con về cho H nuôi dưỡng có nói là cho con đi học, rồi từ đó L không còn ở chung với H tại nhà tôi ở Chợ Vàm nữa. Hiện hai con chung của L, H đang sống với bà Bé Ba và ông H có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường. Trong thời gian sống tại Chợ Vàm thì thấy vợ chồng L, H không có cự cãi gì. Có lẽ L muốn ly hôn với H vì L có người đàn ông khác.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát biểu về quá trình tiến hành tố tụng và đề xuất như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật, Tuy nhiên Ông Nguyễn Văn H vắng mặt từ khi được thông báo các văn bản tố tụng, nhưng ông không có mặt là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về việc giải quyết vụ án: Hôn nhân của Bà L và ông H được xác lập trên cở sở tự tìm hiểu, hôn nhân có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và ly thân, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn được. Nên yêu cầu ly hôn của Bà L là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về con chung: Hiện tại đang sống với ông H, ông H không yêu cầu bà L cấp dưỡng. Đề nghị HĐXX giao con chung cho ông H tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, Nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Hồ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn Ông Nguyễn Văn H được tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông, bà không có mặt nên HĐXX xét xử vắng mặt ông, bà theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Hiện tại Ông Nguyễn Văn H có nơi cư trú tại Ấp Phú H, thị trấn Chợ V, huyện Phú T, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú T, tỉnh An Giang. [2.] Về nội dung:

Hôn nhân của Bà L và ông H được xác lập năm 2012 trên cơ sở tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét về yêu cầu ly hôn, thấy rằng: Trong thời gian chung sống vợ chồng Bà L, ông H có nhiều mâu thuẫn nên thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn kéo dài, đời sống tình cảm ngày càng trầm trọng. Năm 2019 Bà L bỏ nhà đi, vợ chồng ly thân, trong thời gian ly thân Bà L không tới lui thăm hỏi hay có ý hàn gắn tình cảm vợ chồng, đều này phù hợp với lời trình bày của bà Nguyễn Bé Ba và bà Phan Thị Ánh Hồng.

Theo quy định tại Điều 19, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau….”. Thế nhưng vợ chồng Bà L, ông H không còn chung sống khoảng hai năm nay là khoảng thời gian dài. Điều này chứng tỏ vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cũng như không thể chia sẻ công việc trong gia đình với nhau được nữa, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thống nhất cho Bà L được ly hôn ông H.

[3] Về con chung: Bà L trình bày vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Diễm H, sinh ngày 28/5/2013 và Nguyễn Thị Phương H, sinh ngày 09/10/2016 con chung chưa thành niên, con chung hiện tại đang sống chung với ông H. Xét thấy từ khi ly thân đến nay hai con chung đang sống với ông H, có cuộc sống ổn định, nên tiếp tục giao cháu Diễm Hương và Phương Huỳnh cho ông H nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Ông H không ý kiến trình bày, không yêu cầu cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Bà L trình bày tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[4] Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227, Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

-Điều 19, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

-Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Hồ Thị L được ly hôn với Ông Nguyễn Văn H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 29, quyển số 02 ngày 12/4/2013 của Ủy ban nhân dân xã An H, huyện QL, tỉnh NA không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Ông Nguyễn Văn H được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung tên Nguyễn Thị Diễm H, sinh ngày 28/5/2013 và Nguyễn Thị Phương H, sinh ngày 09/10/2016. Con chung hiện đang sống với ông H. Bà Hồ Thị L không phải cấp dưỡng cho con.

Việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên không cố định Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

Nợ phải thu, phải trả chung của vợ chồng: Không.

Về án phí: Bà Hồ Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002505 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án huyện Phú T, tỉnh An Giang. Bà L không phải nộp thêm án phí.

Ông Nguyễn Văn H không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông H, Bà L vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo đối với bản án là 15 ngày tính từ ngày ông, bà nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 98/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:98/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;