TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ C
BẢN ÁN 71/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ LY HÔN
Trong ngày 07 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 334/2022/TLST-HN ngày 20 tháng 6 năm 2022. Về việc: "Xin ly hôn".
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 648/2022/QĐST-HN ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận N, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trương Hà Thảo M sinh năm 2000 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: 250A/7, khu vực 8, phường A, quận N, thành phố C.
Bị đơn: Ông Trần Thanh Th sinh năm 1995 (Vắng mặt) Địa chỉ: 83C, Tầm Vu, phường H, quận N, thành phố C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nguyên đơn trình bày:
Bà và ông Th tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 20/11/2018 tại UBND phường H, quận N, thành phố C. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên khoảng 03 năm nay giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, đời sống chung không hạnh phúc, thường xuyên tranh cãi. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn. Bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn với ông Trần Thanh Th.
- Về con chung: Ông bà có 01 con chung Trần Hoàng Gia B sinh ngày 16/02/2020. Bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành, yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng đến khi con trưởng thành. Tại bản tự khai ngày 07/9/2022, bà M yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng đến khi con trưởng thành.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Thanh Th đã được Tòa án cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định pháp luật.
[1] Về thủ tục tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với bị đơn căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 123 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận N.
- Về sự vắng mặt các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Trần Thanh Th có hộ khẩu thường trú tại số 83C, Tầm Vu, phường H, quận N, thành phố C. Tòa án tống đạt cho bị đơn thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải hợp lệ; Tòa án không tống đạt được cho bị đơn nên tiến hành niêm yết giấy triệu tập và quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn hợp lệ nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Xét về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà M và ông Th xây dựng hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và được UBND phường H, quận N, thành phố C cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/11/2018. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ 03 năm nay giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, đời sống chung không hạnh phúc. Tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được. Vì mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không khắc phục được cho nên giữa bà M và ông Th không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bà M và cháu Trần Hoàng Gia B về sống tại địa chỉ: 250A/7, khu vực 8, phường A, quận N, thành phố C. Bà M nhận thấy tình cảm giữa bà và ông Th không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Toà án tiến hành hoà giải nhưng ông Th không có mặt theo thông báo của Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến của ông Th đối với quan hệ hôn nhân giữa ông bà. Hội đồng xét xử xét thấy giữa bà M và ông Th mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên thống nhất cho bà M ly hôn với ông Th theo quy định Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Về con chung: Ông bà có 01 con chung Trần Hoàng Gia B sinh ngày 16/02/2020. Bà M yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Xét thấy bà M là người trực tiếp nuôi con từ khi sinh ra đến nay hơn nữa cháu B vẫn còn nhỏ nên cần phải có sự chăm sóc của mẹ để bảo đảm những quyền lợi thiết thực nhất cho con. Sau khi bà M và ông Th ly thân cháu B sống cùng bà M cho đến nay, bà M nuôi dưỡng cháu B bảo đảm sự phát triển bình thường. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của M được trực tiếp nuôi con chung trên cơ sở xem xét quyền lợi về mọi mặt của con, để con phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần được quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Căn cứ đơn khởi kiện bà M yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng. Tại bản tự khai ngày 07/9/2022, bà M thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng đến khi con đủ 18 tuổi. Đây là sự tự nguyện của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi. Xét để đảm bảo điều kiện sống và đảm bảo sức khỏe, sự phát triển tâm lý cho cháu B . Hội đồng xét xử chấp nhận mức cấp dưỡng nuôi cháu B là 1.000.000 đồng/tháng, nên ông Th phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B là 1.000.000 đồng/tháng theo quy định tại khoản 1 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Con chưa thành niên các bên đều có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nên dành quyền đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho ông Th không ai được quyền ngăn cản. Tuy nhiên, khi người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung thì người không trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung: Bà M trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, do xét xử vắng mặt ông Th và bà M không yêu cầu giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
- Về nợ chung: Bà M trình bày vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.
[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Nguyên đơn bà Trương Hà Thảo M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), chuyển số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại phiếu thu số 0000651 ngày 13/6/2022 do Chi cục Thi hành án dân sự quận N đã thu sang thành án phí.
[4] Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Ông Trần Thanh Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng :
- Khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 207, khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
Tuyên xử: 1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Trương Hà Thảo M được ly hôn với ông Trần Thanh Th .
2. Về con chung: Giao cháu Trần Hoàng Gia B sinh ngày 16/02/2020 cho bà Trương Hà Thảo M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Ông Trần Thanh Th cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày bản án có hiệu lực cho đến khi cháu Trần Hoàng Gia B đủ 18 tuổi. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho ông Trần Thanh Th không ai được quyền ngăn cản.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn bà Trương Hà Thảo M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), chuyển số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại phiếu thu số 0000651 ngày 13/6/2022 do Chi cục Thi hành án dân sự quận N đã thu sang thành án phí.
5. Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Ông Trần Thanh Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 71/2022/HNGĐ-ST về ly hôn
Số hiệu: | 71/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về